Hoàn Thiện Mô Hình Kiểm Tra Sức Chịu Đựng Vi Mô Đối Với Rrtd Theo Chuẩn Mực Quốc Tế Tại Vietinbank



hàng, đáp ứng được đúng các yêu cầu quốc tế về đảm bảo an toàn tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II. Thông qua việc áp dụng Basel II, Vietinbank sẽ phải tính toán rủi ro một cách chi tiết giúp giảm thiểu vốn pháp định cần có trong hoạt động kinh doanh, giảm thiểu việc lựa chọn những khách hàng không có khả năng trả nợ, do đó sẽ giảm những tổn thất tín dụng, tập trung nhiều hơn vào những sản phẩm đem lại lợi nhuận. Đồng thời, việc này cũng làm tăng tính minh bạch cho lợi nhuận của tài khoản, giảm tổn thất hoạt động nhờ những hiệu quả trong kiểm soát và giám sát. Vietinbank đã bước đầu triển khai áp dụng công cụ Kiểm tra sức chịu đựng trong công tác quản trị RRTD ngân hàng và đã đạt được những kết quả sau đây:

- Vietinbank đã xây dựng được một cơ chế thực hiện quản trị RRTD nói chung và thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng nói riêng mà có sự tham gia của tất cả các thành viên trong ngân hàng, từ Hội đồng quản trị, Ban lãnh đạo cho tới các phòng, ban quản lý rủi ro phía dưới và các nhân viên chịu trách nhiệm thực hiện quản lý rủi ro.

- Vietinbank đã có được những kết quả bước đầu trong việc xây dựng kế hoạch truyền thông và tổ chức tập huận về Kiểm tra sức chịu đựng tới các bộ phận có liên quan. Việc thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng đã được thực hiện với sự tham gia của tất cả các cấp trong ngân hàng, từ sự tham gia của Hội đồng quản trị, Ban lãnh đạo, cho tới sự tham gia của các phòng ban và các nhân viên liên quan.

- Đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã được Vietinbank chú trọng. Các dự án đang được triển khai sau khi hoàn thành không những sẽ là nền tảng để Vietinbank tiết kiệm được thời gian và nhân lực thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng mà còn giúp tăng được hiệu quả của công cụ này. Tại các ngân hàng triển khai Basel II, một trong những khó khăn lớn nhất là không có hệ thống công nghệ thông tin để hỗ trợ ngân hàng các tính năng và dữ liệu phù hợp cho hoạt động quản trị RRTD và các yêu cầu của phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ IRB của Basel II. Có thể nói, Vietinbank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tiến hành dự án xây dựng Hệ thống quản lý RRTD nội bộ một cách đầy đủ và toàn diện theo định hướng chuẩn mực quốc tế Basel II.

3.3.2.2. Hạn chế



Ba mặt hạn chế của công tác thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng tại Vietinbank chủ yếu thể hiện ở công tác xây dựng quy trình thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng , xây dựng kịch bản Kiểm tra sức chịu đựng và thu thập nguồn dữ liệu đầu vào.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Thứ nhất, về quy trình thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng , Vietinbank chưa có quy định rõ ràng và chi tiết hướng dẫn việc thực hiện. Vietinbank hiện nay chưa sử dụng các chỉ số PD, LGD, EAD trong quản trị RRTD nói chung, Kiểm tra sức chịu đựng nói riêng. Bên cạnh đó, các quy định cũng chưa được cập nhật theo sự thay đổi của môi trường kinh tế. Vietinbank sử dụng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (XHTDNB) nhằm xác định hạng tín dụng của khách hàng. Tuy nhiên, hệ thống XHTDNB của Vietinbank hiện tại được xây dựng theo quan điểm chuyên gia để đo lường RRTD của khách hàng dựa trên các tiêu chí tài chính và phi tài chính. Để đảm bảo chức năng đo lường RRTD, hệ thống XHTDNB phải được rà soát hàng năm và điều chỉnh (các tiêu chí và trọng số đánh giá) cho phù hợp với chính sách tín dụng và sự thay đổi của môi trường kinh tế. Tuy nhiên, để hướng tới quản trị RRTD theo chuẩn IRB của Basel II, Vietinbank phải phát triển các mô hình đo lường RRTD theo phương pháp thống kê. Các mô hình XHTDNB và các phương pháp xếp hạng khác sau khi được kiểm tra và xác thực độ tin cậy và khả năng dự báo, sẽ được sử dụng để ước tính PD, EAD và LGD. Đây là những công cụ cơ bản hỗ trợ Vietinbank ước lượng hiệu quả RRTD từ cấp độ giao dịch cụ thể đến cấp độ danh mục, tính toán nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động tín dụng. Việc phát triển, kiểm định, phê duyệt mô hình và các ứng dụng mô hỉnh trong kinh doanh và quản trị rủi ro đều phải được xây dựng thảnh văn bản quy định rõ ràng, trong đó các quy trình thu thập thông tin, xử lý dữ liệu để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy của các dữ liệu đầu vào cho mô hình cần phải được lập thành văn bản.

Thứ hai, về xây dựng kịch bản Kiểm tra sức chịu đựng, NHCT đã thực hiện kiểm định sức ép đối với hoạt động tín dụng, và do hạn chế về mặt số liệu nội bộ, Phòng QLRRTD thực hiện kiểm định sức ép đơn biến (Single Factor) đánh giá ảnh hưởng biến động lớn một nhân tố rủi ro (GDP) tác động đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Kịch bản tiêu chuẩn (Baseline) sẽ được xây dựng dựa trên dữ liệu của tỷ lệ tăng trưởng GDP trong 5 năm, sử dụng mô hình hồi quy ARIMA để dự báo

Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Nghiên cứu điển hình Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - 13



trên cơ sở so sánh và đối chiếu với dự báo của ADB về kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, Ngân hàng nên mở rộng mô hình kinh tế lượng từ đơn biến thành đa biến để kiểm định mức độ tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác tới chất lượng tín dụng ngân hàng (nếu có).

Thứ ba, về nguồn dữ liệu đầu vào thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng , hạ tầng cơ sở thông tin của Vietinbank còn hạn chế, chưa đủ khả năng cung cấp dữ liệu thông tin một cách chính xác, cập nhật cho quá trình thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng . Đối với mô hình kinh tế lượng vĩ mô, do số liệu về tăng trưởng GDP theo quý có thể thu thập từ nguồn Tổng cục Thống kê từ năm 2000 đến nay, nên độ dài chuỗi dữ liệu khá dồi dào, phản ánh 3 giai đoạn diễn biến của tỷ lệ tăng trưởng GDP gồm (i) giai đoạn tăng trưởng bình quân trên 7.5%/năm vào trước khủng hoảng 2008; (ii) giai đoạn chịu tác động của khủng hoảng thế giới 2008-2009, (ii) giai đoạn sau khủng hoảng 2008-2009 tới nay. Độ dài chuỗi dữ liệu này phần nào phản ảnh chu kỳ phát triển kinh tế Việt Nam.

Tuy nhiên, khi thực hiện mô hình đánh giá RRTD, thì ngân hàng gặp nhiều khó khăn vì số liệu trước năm 2011 được quản lý chưa đồng nhất, các quy định về phân loại nợ thay đổi nhiều lần. Những hạn chế về số liệu khiến kết quả dự báo tỷ lệ nợ xấu chưa chính xác. Hơn nữa, số liệu cho phép dự phóng PD chỉ có thể thu thập từ năm 2013, khi Vietinbank bắt đầu triển khai hệ thống LOS (Loan Origination System).

3.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Mặc dù Uỷ ban Basel đã có rất nhiều nỗ lực trong việc đưa ra các tiêu chuẩn áp dụng Kiểm tra sức chịu đựng trong lĩnh vực ngân hàng thông qua Basel I, Basel II, Basel III, nhưng chưa có nhiều ngân hàng tại Việt Nam thực sự áp dụng công cụ này vào công tác quản trị rủi ro vì những lý do khách quan và chủ quan sau đây.

(i) Nguyên nhân khách quan

- Việt Nam triển khai Basel II trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế với nhiều biến động trong hệ thống ngân hàng, nợ xấu tăng cao sẽ khó khăn hơn do yêu cầu về vốn cao hơn. Bản thân những yêu cầu trong Hiệp ước vốn Basel được thiết



kế và xây dựng dựa trên kinh nghiệm và phù hợp với thị trường phát triển, vì vậy, chi phí bỏ ra để đáp ứng những tiêu chuẩn trong Hiệp ước vốn Basel sẽ cao và có thể sẽ có những nội dung không phù hợp với tình hình hiện tại của các thị trường đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

- Trong thời gian qua, để chuẩn bị cho các ngân hàng triển khai Basel II, một loạt văn bản quy định về quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước liên tục đưa ra thời gian qua. Ngân hàng Nhà nước cũng đang tiếp thu ý kiến đóng góp Dự thảo Thông tư hướng dẫn về tỷ lệ an toàn vốn theo phương pháp chuẩn để làm cơ sở pháp lý cho các ngân hàng thực hiện và Ngân hàng Nhà nước giám sát. Cho đến nay, dự thảo Thông tư này vẫn đang là chủ đề nóng nhận được sự quan tâm cả các ngân hàng, cũng như các chuyên gia nghiên cứu trong ngành. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, dự thảo Thông tư còn một số bất cập chính như sau:

Thứ nhất, đối với các khoản cho vay định chế tài chính, trọng số rủi ro cho khoản phải đòi, khoản tín dụng đối với Tổ chức tín dụng rất cao, dẫn tới tăng chi phí vốn của ngân hàng, đặc biệt 1 số khỏan tín dụng ngân hàng sẽ chịu trọng số rủi ro rất cao.

Thứ hai, việc áp các hệ số rủi ro thấp đối với doanh nghiệp có doanh thu cao dẫn tới các ngân hàng có xu hướng tập trung cho vay đối với doanh nghiệp lớn, không chú trọng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phân khúc doanh nghiệp siêu vi mô sẽ được xếp vào nhóm khách hàng doanh nghiệp không có báo cáo tài chính và áp hệ số rủi ro cao nhất là 250%.

Thứ ba, loại hình cho vay chuyên biệt như tài trợ dự án đang phổ biến và khuyến khích tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong khi đó, trọng số rủi ro được áp dụng là khá cao.

- Việc triển khai Basel II và áp dụng phương pháp chuẩn hóa cho RRTD phụ thuộc rất nhiều vào các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập. Trong khi đó, chưa có đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập trong nước hoạt động hiệu quả, việc triển khai Basel II sẽ là một thách thức lớn. Các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập quốc tế như



Moody’s, S&P… có thể là một lựa chọn, nhưng chi phí là một rào cản để các ngân hàng yêu cầu khách hàng sử dụng các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập quốc tế này.

- Việc giải quyết nợ xấu tại các NHTM còn gặp nhiều khó khăn. Việc xử lý nợ xấu còn chậm, VAMC ra đời nhưng chưa có môi trường pháp lý hoàn chỉnh nên chưa phát huy hết vai trò xử lý nợ xấu của mình, nhiều khoản nợ xấu mua lại từ các ngân hàng chưa tìm được đầu ra phù hợp. Do đó các ngân hàng đang tập trung vào xử lý nợ xấu nên chưa tập trung xây dựng môi trường tốt để thực hiện và áp dụng được công cụ Kiểm tra sức chịu đựng .

(ii) Nguyên nhân chủ quan

- Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những hạn chế trong việc triển khai thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng tại các NHTM nói chung và tại Vietinbank nói riêng là do các ngân hàng chưa nhận thức được tầm quan trọng của Kiểm tra sức chịu đựng trong quá hoạt động của mình. Điều này được thể hiện ở việc các ngân hàng chưa chú trọng xây dựng những văn bản hướng dẫn thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng trong nội bộ ngân hàng và loại Kiểm tra sức chịu đựng cần thực hiện.

- Mô hình Kiểm tra sức chịu đựng còn đơn giản. Chưa có mô hình đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với RRTD ngân hàng. Kịch bản được xây dựng đơn giản, dựa trên giả định tăng tỷ lệ nợ xấu trong kịch bản xấu. Chưa đưa vào mô hình các chỉ số RRTD mới như PD, RWA, mà chỉ dừng lại ở NPL.

- Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và hệ thống dữ liệu cũng chưa được các NHTM chú trọng. Khi không có được cơ sở dữ liệu tốt thì việc áp dụng Kiểm tra sức chịu đựng trên toàn hệ thống ngân hàng là điều không thể thực hiện được.

- Đội ngũ nhân sự trong ngành ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực quản trị rủi ro còn trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm, do đó chưa bắt kịp được với sự phát triển của các sản phẩm mới cũng như chưa có được sự làm việc hiệu quả cần thiết với các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị rủi ro.

- Chưa thường xuyên cập nhật quy trình Kiểm tra sức chịu đựng , chưa có



những báo cáo đánh giá về công tác thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng , cụ thể qua các tiêu chí: khả năng đáp ứng của kết quả Kiểm tra sức chịu đựng cho công tác quản trị rủi ro, độ phù hợp của dữ liệu đầu vào, sự phối hợp của các phòng ban khác trong ngân hàng. Các báo cáo này nên được thực hiện một quý một lần và cần có ý kiến nhận xét của nhân viên các cấp trong ngân hàng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Hoạt động tín dụng của Vietinbank có quy mô lớn và là hoạt động mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng. Trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015, hoạt động tín dụng của Vietinbank đã có những thay đổi nhằm đa dạng hoá phân khúc khách hàng và thành phần kinh tế cho vay, làm phát sinh những rủi ro khi toàn bộ nền kinh tế có những cú sốc lớn. Do đó, ngay cả khi chất lượng tín dụng của Vietinbank cũng được đánh giá là tốt trong hệ thống các NHTM Việt Nam, Vietinbank vẫn cần có những biện pháp dự đoán và phòng ngừa rủi ro.

Vietinbank đã bước đầu triển khai Kiểm tra sức chịu đựng RRTD trong quản trị ngân hàng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt là chưa có mô hình phù hợp. Các yếu tố vĩ mô trong thời gian sắp tới sẽ có nhiều chuyển biến rất khó để có thể dự báo. Vì vậy, ngân hàng cần xây dựng một mô hình Kiểm tra sức chịu đựng RRTD hoàn chỉnh, giúp cho ngân hàng có thể sẵn sàng ứng phó với những cú sốc của thị trường.


CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN MÔ HÌNH KIỂM TRA SỨC CHỊU ĐỰNG VI MÔ ĐỐI VỚI RRTD THEO CHUẨN MỰC QUỐC TẾ TẠI VIETINBANK


Trong chương này, luận án sẽ thiết lập và kiểm định mô hình Kiểm tra sức chịu đựng vi mô RRTD theo chuẩn mực quốc tế tại Vietinbank, bao gồm thiết lập mô hình kinh tế vĩ mô, xây dựng kịch bản Kiểm tra sức chịu đựng, từ đó, đánh giá mức độ RRTD, tỷ lệ NPL, RWA và CAR của Vietinbank trong các kịch bản xấu và căng thẳng, cụ thể:

Bước 1: Đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô Việt Nam đối với tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank. Để khắc phục hạn chế về số lượng quan sát (28 quý kể từ khi Vietinbank cổ phần hóa đến quý 1/2016), Luận án xây dựng mô hình dự đoán nợ xấu của Vietinbank dựa trên dữ liệu của chín NHTM CP niêm yết tại Việt Nam trong 28 quý từ quý 1/2009 đến quý 4/2015, nâng tổng số quan sát lên tối đa 252. Việc lựa chọn ngân hàng tham gia nghiên cứu, biến độc lập và điều chỉnh số liệu công phu, phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về cấu trúc, đặc thù số liệu nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam, cũng như số liệu thống kê các chỉ số kinh tế vĩ mô nước ta.

Bước 2: Sau khi xây dựng được phương trình mô tả tác động của các yếu tố vĩ mô đến tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, Luận án dự phóng giá trị của các biến kinh tế vĩ mô được lựa chọn. Thời gian kiểm định là 7 quý (từ quý 2 năm 2016 đến quý 4 năm 2017), theo 3 kịch bản chuẩn, kịch bản xấu và kịch bản căng thẳng. Các kịch bản xấu và căng thẳng được tính trên cơ sở giá trị trung bình của GDP theo quý của Việt Nam từ quý 1/1990 trở lại đây, giảm trừ 1 lần độ lệch chuẩn trong 3 và 5 quý liên tiếp, tương đương với giảm 3 lần độ lệch chuẩn cho GDP theo năm. Việc lựa chọn này chặt chẽ hơn so với yêu cầu của IMF khi xây dựng kịch bản căng thẳng bằng giá trị trung bình trừ đi 2 lần độ lệch chuẩn (IMF, 2012).

Bước 3: Luận án đánh giá NPL, PD, RWA và mức độ đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của Vietinbank trong ba kịch bản.


4.1. Mô hình kinh tế vĩ mô

4.1.1. Dữ liệu nghiên cứu

Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm ra được những biến quan trọng có ý nghĩa thống kê tác động đến tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank để từ đó có thể dự đoán được tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank trong thời gian tới. Đề tài sử dụng dữ liệu bảng của 9 ngân hàng thương mại niêm yết trải qua 28 quý từ năm 2009 đến 2015. Do Vietinbank là ngân hàng thuộc nhóm đầu và là ngân hàng niêm yết, nên việc sử dụng số liệu của các ngân hàng niêm yết phù hợp. Nếu đối tượng Kiểm ra sức chịu đựng không phải là Vietinbank, mà là một ngân hàng thuộc nhóm các ngân hàng nhỏ, không niêm yết, thì việc lựa chọn ngân hàng niêm yết có thể chưa phản ánh đúng chất lượng nợ mà phải dùng một mẫu dữ liệu khác.

Sử dụng dữ liệu bảng giúp cho các kết quả ước lượng trong mô hình tin cậy hơn, đồng thời cho phép xác định những tác động vốn không xác định và đo lường được khi sử dụng dữ liệu chéo hoặc dữ liệu thời gian. Tổng thể đối tượng của nghiên cứu là toàn bộ các NHTM tại Việt Nam. Tuy nhiên, do không có điều kiện thu thập số liệu về tỷ lệ nợ xấu của tổng thể các NHTM theo quý, nên mẫu nghiên cứu được xây dựng từ dữ liệu của 9 NHTM niêm yết. Các ngân hàng này bao gồm 3 NHTM do Nhà nước nắm quyền sở hữu chi phối và 6 NHTM CP, với tổng dư nợ cấp cho nền kinh tế đạt 2,188.5 nghìn tỷ đồng tại 31/12/2015. Theo số liệu NHNN, tổng dư nợ đối với nền kinh tế của toàn hệ thống, bao gồm các NHTM Nhà nước, NHTM CP, NH liên doanh, nước ngoài, công ty tài chính, NH Hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân tại cùng thời điểm là 4,657 nghìn tỷ đồng. Như vậy, 9 NHTM thuộc mẫu nghiên cứu chiếm 46.99% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; tương đương 51.32% tổng dư nợ được cấp bởi các NHTM, không bao gồm khối ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài. Về tổng tài sản, 9 NHTM thuộc mẫu nghiên cứu chiếm 54.57% tổng tài sản toàn hệ thống tại 31/12/2015.

Thời gian nghiên cứu từ quý 1 năm 2009 đến quý 4 năm 2015 (28 quý), do hai ngân hàng lớn CTG và VCB niêm yết lần đầu trong năm 2009. Số liệu về nợ xấu tại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023