Nhóm Các Giải Pháp Trong Quan Hệ Giữa Công Chúng Với Kiểm Toán Nhà Nước Thông Qua Kiểm Toán Hoạt Động



KTHĐ phân theo lĩnh vực và triệu tập các KTV thực hiện cuộc KTHĐ được tham gia khóa học KTHĐ các chương trình từng cấp độ để chủ động xây dựng đề cương, kế hoạch KTHĐ theo phân công, phân nhiệm để đảm bảo đề cương, kế hoạch KTHĐ các chương trình, dự án trọng điểm được xây dựng phù hợp với khung chương trình và kinh nghiệm thực tiễn;

(3) Triệt để nghiên cứu việc ứng dụng công nghệ thông tin trong KTHĐ các chương trình, dự án trọng điểm sau khi chương trình CNTT được triển khai nhân rộng trong HĐKT tại các chuyên ngành và khu vực; (4) Đổi mới phương pháp lập kế hoạch KTHĐ các chương trình, dự án trọng điểm theo kinh nghiệm quốc tế; phát triển phương pháp tiếp cận KTHĐ dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu kiểm toán trong cuộc kiểm toán; cụ thể hóa và xác định rõ vấn đề kiểm toán, cách thức xác định và đánh giá vấn đề KTHĐ; xác định cách thức thu thập bằng chứng KTHĐ, cách thức phân tích, đánh giá bằng chứng kiểm toán tại kế hoạch kiểm toán tổng quát; (5) Với yêu cầu đề ra của các SAIs trong khu vực, KTNN chỉ đạo việc vận dụng hiệu quả loại hình kiểm toán liên tục các chương trình, dự án trọng điểm được lựa chọn theo định hướng của các SAIs (chương trình, dự án có vòng đời kéo dài như: Môi trường, nợ công, công nghệ thông tin,...), nhằm đưa ra báo cáo nhanh, báo cáo liên tục, kịp thời thông tin, dữ liệu phục vụ lập kế hoạch kiểm toán cho các cuộc KTHĐ về sau. Đồng thời là cơ sở dữ liệu lập báo cáo kết quả KTHĐ các chương trình, dự án trọng điểm, tổ chức hội thảo giữa các SAIs để lấy ý kiến, truyền đạt kinh nghiệm.

4.5.5 Nhóm các giải pháp trong quan hệ giữa công chúng với Kiểm toán Nhà nước thông qua kiểm toán hoạt động

KTNN thiết lập một hệ thống truyền thông trong HĐKT, công nghệ thông tin một cửa và đối thoại. Đây là hoạt động rất hữu ích giúp cho công chúng (người sử dụng thông tin) nắm bắt kịp thời những vấn đề cần giải quyết liên quan đến lợi ích của công chúng. Ngoài ra, giúp cho KTNN có được thông tin phản hồi từ công chúng để thu thập đầy đủ các tư liệu, bằng chứng kiểm toán trong quá trình tổ chức KTHĐ như sau: (1) KTNN tăng cường hiệu lực hơn trong quy chế phối hợp với các cơ quan: Thanh tra, Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội, các cơ quan lập pháp, hành pháp để thực hiện tốt các giao ước theo thông lệ quốc tế và quy chế hoạt động. Ngoài ra, KTNN nâng cao thẩm quyền tham vấn để hoàn thiện các văn bản pháp luật Nhà nước và hệ thống pháp luật KTNN nhất là văn bản về xử lý trách nhiệm, vi phạm đối với việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN và phối hợp trong HĐKT; (2) KTNN đẩy mạnh phát triển hệ thống công nghệ thông tin truyền thông, các kênh, cổng thông tin tuyên truyền, phổ biến HĐKT và pháp luật KTNN, vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công. Ngoài ra, bộ phận đầu mối thực hiện KTHĐ thường xuyên thẩm vấn, lấy ý kiến của công chúng và doanh nghiệp về các vấn đề quan trọng ảnh hưởng trong HĐKT, xây dựng kế hoạch chiến lược



KTHĐ trung và dài hạn về lựa chọn một vấn đề, chủ đề KTHĐ đang tiềm ẩn nhiều rủi ro và luôn gây bức xúc trong công chúng; (3) KTNN đẩy mạnh các hoạt động, các kết quả KTHĐ, kết quả hợp tác đối thoại, quan hệ và tiếp thu kinh nghiệm với các SAIs trong khu vực để công khai thường niên, định kỳ qua cổng thông tin điện tử báo cáo ASOSAI và INTOSAI; (4) Thường xuyên lấy ý kiến và đối thoại với các đơn vị được kiểm toán về chiến lược hợp tác trong HĐKT, hoạt động công vụ và lựa chọn chủ đề, vấn đề KTHĐ. Tháo gỡ những bất đồng, tồn tại, hạn chế trong thực hiện kết luận, kiến nghị KTHĐ của nhiều năm trước, chặn đứng những sai phạm có thể tái diễn.

Hệ thống QLTC, tài sản công: Quốc hội, Chính phủ, nhà quản lý, khách thể kiểm toán, công chúng...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Về tổng thể: Các nhóm giải pháp trên giúp cho KTNN nâng cao được vai trò qua thực hiện KTHĐ và thể hiện qua Mô hình sau:


Kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công ở Việt Nam - 21

Đoàn KTHĐ

Kiểm tra, giám sát đầu vào: Chủ trương đầu tư xây dựng và quy hoạch

Kiểm soát hoạt động và kết quả đầu ra: Phân kỳ quý n/4, tháng n/12

Tham vấn quản lý:

Mục tiêu, định hướng



Thành lập tổ giám sát: Bộ phận khảo sát, giám sát ít nhất 2 thành viên

Văn phòng hiện trường: Bộ phận kiểm soát độc lập ít nhất 2 thành viên


Báo cáo hậu kiểm: Cuối kỳ lập báo cáo tổng hợp KTHĐ

Báo cáo tiền kiểm:

Thường xuyên, liên tục

Báo cáo hiện kiểm:

Định kỳ và tổng quan

Sơ đồ 4.2: Giải pháp KTHĐ nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công

Nguồn: Tác giả tổng hợp

KTNN tổ chức bộ máy phân tuyến theo đoàn KTHĐ phân cấp nhiệm vụ đến tổ giám sát và văn phòng hiện trường được thành lập theo nguyên tắc bốn mắt tại kế hoạch nhân sự. Tổ, đoàn KTHĐ thực hiện phân kỳ giám sát, kiểm soát tổng thể từ giai đoạn thực



hiện kế hoạch KTHĐ cho đến khi lập báo cáo tổng hợp KTHĐ và chuyển về cho đoàn KTHĐ tham vấn quản lý đến các cấp Nhà nước và công chúng, cụ thể: Tổ giám sát được thiết lập vừa khảo sát vừa thực hiện tiền kiểm cho các nguồn lực đầu vào được hoạch định nhằm lập báo cáo kiểm toán liên tục cho từng nội dung, từng sự vụ; kiểm soát hoạt động và kết quả đầu ra do văn phòng hiện trường đảm nhiệm hiện kiểm trong suốt quá trình thi công, xây dựng và lập báo cáo kiểm soát định kỳ, tổng quan kết hợp với kết quả báo cáo tiền kiểm chuyển tiếp để tập hợp, lập báo cáo hậu KTHĐ cho cả giai đoạn thực hiện dự án đưa vào hoạt động và khai thác; báo cáo KTHĐ gửi về hội sở, trình Quốc hội, Chính phủ và thực hiện tham vấn quản lý, đề xuất mục tiêu chiến lược, hoàn thiện hệ thống QLTC, tài sản công trong trung hạn và dài hạn luôn được công chúng quan tâm.

4.6 Các kiến nghị nhằm hiệu lực hóa vai trò kiểm toán

4.6.1 Kiến nghị đối với Nhà nước

Để nâng cao vai trò KTNN, kiến nghị Nhà nước quan tâm những mặt sau: (1) Nhà nước cần điều chỉnh những quy định để nâng cao hơn nữa vị trí pháp lý, vai trò của KTNN tránh trùng lập, chồng lấn với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra, kiểm tra kinh tế. Nâng cao vai trò của KTNN với việc thiết chế độc lập đã được hiến định thì Nhà nước cần bổ sung rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra là chỉ thực hiện thanh tra chuyên sâu theo vụ việc, theo kết quả của kiểm toán khi có dấu hiệu tham nhũng, sai phạm nghiêm trọng cần xác minh làm rõ. Nhà nước cần quy định rõ thẩm quyền xử lý vi phạm trong kiểm toán nói chung, KTHĐ nói riêng nhằm tránh trường hợp các đơn vị, đối tượng dựa vào kiểm toán để hợp thức hóa những vụ việc đáng ra phải được thanh tra, xác minh làm rõ; (2) Nhà nước tiếp tục quan tâm, chỉ đạo rà soát sửa đổi Luật KTNN năm 2015 để phù hợp với Luật NSNN năm 2015 và Luật thanh tra năm 2010, tập trung vào các vấn đề: Đối tượng kiểm toán, phạm vi kiểm toán; thời hạn kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán, nhất là đối với báo cáo KTHĐ; phạm vi thực hiện các mối quan hệ phối hợp, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức tránh trùng lập, chồng chéo nhiệm vụ trong hoạt động; nâng cao chế tài và tính pháp chế của Luật KTNN về xử lý vi phạm pháp luật trong HĐKT đối với các đơn vị được kiểm toán, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có liên quan; (3) Quốc hội chỉ đạo Chính phủ, Bộ ngành trong mối quan hệ phối hợp với KTNN trong hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính, tài sản công và kiểm soát hoạt động QLTC, tài sản công. Quy định về nguyên tắc khai thác thông tin tài liệu mật, bí mật quốc gia để đưa vào kế hoạch KTHĐ, phục vụ nhiệm vụ chính trị quốc gia và nguyên tắc công khai kết quả KTHĐ cho người sử dụng thông tin, công chúng và các SAIs thuộc các Cơ quan kiểm toán quốc tế; (4) Nhà nước luôn ưu tiên phân bổ kinh phí hoạt động cho KTNN, nâng cao chế độ tiền lương và thu nhập của KTV toàn ngành và KTV thực



hiện KTHĐ so với KTV các nước phát triển trong khu vực để đảm bảo tính chuẩn mực, chính trực, chí công vô tư theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Nhà nước luôn quan tâm đến đầu tư, phát triển công nghệ thông tin, cơ sở vật chất đảm bảo các hoạt động của KTNN được trang bị hiện đại so với các SAIs có truyền thống phát triển mạnh về KTHĐ.

4.6.2 Kiến nghị đối với cơ quan quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công

Các cơ quan, các cấp, các ngành thực hiện vai trò QLTC, tài sản công luôn giữ mối quan hệ hợp tác tốt với KTNN để phối hợp kịp thời trong việc giải toả trách nhiệm của người đứng đầu, tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn trong điều hành, quản lý, đặc biệt những phát hiệu qua KTHĐ. Người đứng đầu các cơ quan quản lý luôn chỉ đạo công khai tài chính cho KTNN và thường niên thảo luận dự toán, thảo luận kế hoạch thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội hàng năm và nhiệm kỳ. Các cơ quan, các cấp, các ngành cần minh bạch trách nhiệm giải trình và trách nhiệm trong QLTC, tài sản công cho cơ quan KTNN cùng với Bộ Tài chính để giải tỏa trách nhiệm liên đới thuộc phạm vi, thẩm quyền. Các đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức có liên quan đến HĐKT nâng cao ý thức hợp tác với KTNN trong việc cung cấp, khai thác dữ liệu điện tử, số hóa, thông tin liên quan đến hoạt động của đơn vị và đẩy mạnh hợp tác công vụ về quyền hạn khiếu nại, khởi kiện trong HĐKT. Các cơ quan QLTC, tài sản công cần tuyên truyền mạnh hơn về nhận thức việc chấp hành các quy định của pháp luật KTNN nhằm hạn chế những sai sót trong thi hành khi hệ thống pháp luật Nhà nước chưa được hoàn thiện, thay thế. Nâng cao nhận thức về xử phạt hành chính vi phạm ảnh hưởng đến an ninh tài chính và thất thoát, lãng phí nguồn lực công theo luật định mới do KTNN quy định. Tập huấn quy định của KTNN về xử lý vi phạm pháp luật KTNN trong thực hiện kiến nghị của KTNN và trong hợp tác công vụ.

4.7 Những hạn chế và định hướng nghiên cứu

Với những thành tựu đạt được về nghiên cứu các mối quan hệ trong kiểm toán qua các mô hình lý thuyết, Luận án có những hạn chế nhất định chưa giải quyết triệt để vấn đề nghiên cứu độc lập về các nhân tố hay tiêu chí hình thành ảnh hưởng đến sự phát triển KTHĐ và vai trò của KTNN trong QLTC, tài sản công.

Định hướng nghiên cứu: Qua nghiên cứu các mối quan hệ về vai trò kiểm toán trong hệ thống QLTC, tài sản công, Tác giả luận án đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo: (i) Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phương thức tổ chức KTHĐ (Tiền, hiện, hậu kiểm) của KTNN; (ii) các tiêu chí ảnh hưởng đến đánh giá mục tiêu KTHĐ trong mô hình 3Es (Đầu vào - Đầu ra - Kết quả); (iii) các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò KTNN trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.


Kết luận chương 4


Nhìn chung, vai trò của KTNN có mối quan hệ sâu sắc và gắn chặt với vai trò của KTHĐ nhưng trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa thực hiện tốt đột phá chiến lược và mang lại kỳ vọng cao trong kiểm soát QLTC, tài sản công. Vấn đề đặt ra trước bối cảnh hội nhập quốc tế, KTNN đã thể hiện được phần nào vai trò chủ đạo trong mối quan hệ với quản lý, giám sát công quỹ góp phần ngăn chặn lãng phí, thất thoát, đẩy mạnh hiệu quả, hiệu lực hoạt động và hiệu năng quản lý. Để đáp ứng được nhiệm vụ mới, KTNN cần đổi mới phương thức tổ chức KTHĐ theo định hướng chiến lược của ASOSAI; KTNN thực hiện mục tiêu hiệu quả khi các nguồn lực công được kiểm soát minh bạch, kiện toàn BMKT với vai trò, chức trách và thẩm quyền tổ chức thực hiện các cuộc KTHĐ độc lập theo một chiến lược kiểm toán dài hạn, xuyên suốt chu trình hoạt động từ các khâu lập, chấp hành dự toán, thực hiện và quyết toán vốn đầu tư, đưa tài sản vào quản lý sử dụng và giám sát hoạt động.

Vai trò của KTNN được hiến định hoạt động độc lập gắn với hoạt động kiểm soát, giám sát của Nhà nước trong quản lý và sử dụng nguồn lực công, tài chính, tài sản công. Các giải pháp nâng cao vai trò KTNN qua KTHĐ nhằm giúp cho Quốc hội, Chính phủ và các cấp QLNN nhanh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu quả Cách mạng công nghiệp 4.0; tăng cường quản lý nguồn lực công, bảo vệ môi trường pháp lý, đẩy mạnh CCHC, cải cách pháp luật, tinh gọn bộ máy KTNN; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế đa phương và song phương. Định hướng chiến lược giúp cho BMKT Nhà nước được cải tiến đồng bộ, hiện đại, thực hiện tốt bốn mục tiêu định hướng của ASOSAI, trình INTOSAI; giúp KTNN khơi thông nguồn lực kiểm toán, thiết chế độc lập để kiểm soát hiệu quả việc quản lý và sử dụng các nguồn lực công ích của Nhà nước và Nhân dân; KTNN thực hiện các đột phá chiến lược "Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả", xây dựng BMKT liêm chính, chính trực, chí công vô tư, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành động, tạo động lực phát triển bền vững; chú trọng CCHC bộ máy KTNN, vận dụng Chính phủ điện tử gắn với sắp xếp tổ chức BMKT, biên chế tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả gắn với việc tăng cường số lượng và chất lượng KTHĐ theo mục tiêu của Quốc hội.



PHẦN KẾT LUẬN


Qua kết quả nghiên cứu và định hướng phát triển vai trò KTNN trong mối quan hệ với vai trò kiểm soát QLTC, tài sản công của Quốc hội, Chính phủ và các chủ thể quản lý của nền kinh tế. Kết quả được rút ra từ đánh giá thực trạng tổ chức KTHĐ đối với KTNN Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho thấy: (1) Tổ chức KTHĐ ở Việt Nam đang theo hướng kiểm toán chuyên đề chuyên sâu đối với các chương trình, dự án trọng điểm cho cả giai đoạn được thực hiện, chủ yếu áp dụng loại hình kiểm toán tuân thủ hơn so với hiệu quả vận dụng KTHĐ. Phần lớn các KTV nhận thức loại hình KTHĐ với kiểm toán chuyên đề chưa rõ ràng, đồng thời KTNN đang tăng cường mạnh việc thực hiện kiểm toán đối với các dự án, chương trình trọng điểm theo hướng chuyên đề kiểm toán mà chưa chú trọng cho KTHĐ; (2) KTNN Việt Nam chưa vận dụng triệt để loại hình kiểm toán liên tục, kiểm toán liên kết để lập báo cáo nhanh về các hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cuộc kiểm toán trọng điểm, quy mô lớn, có nhiều lĩnh vực rủi ro cao; (3) KTNN Việt Nam tổ chức thực hiện phương thức tiền kiểm, hiện kiểm còn khó khăn, chưa rõ ràng và triệt để dẫn đến kết quả kiểm toán đang tồn tại nhiều rủi ro kiểm toán. Các sai phạm vốn có vẫn luôn tồn tại, tái lập lại trong cả giai đoạn kiểm toán mà qua hậu kiểm, KTNN chưa thể ngăn chặn. Hiện nay, KTNN đang tổ chức mạnh về các cuộc KTHĐ quản lý và sử dụng vốn đầu tư phát triển mà chưa thực hiện phương thức tiền kiểm, hiện kiểm để đánh giá mục tiêu hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng quản lý tại báo cáo KTHĐ. Việc tổ chức kiểm toán chỉ được thực hiện một lần cho một dự án hay công trình và đưa ra kết luận xử lý tài chính, kiến nghị kiểm toán đối với các sai phạm hiện hữu mà việc thực hiện TCKT liên tục, đánh giá vấn đề, kiểm toán hệ thống hoạt động và hiện trường nhằm đẩy mạnh thiết chế, thẩm quyền gắn với việc kiểm soát, giám sát hoạt động hàng năm, hàng kỳ, quý cho một chu kỳ kiểm toán được lập lại liên tục giúp đạt được mục tiêu thực hiện kế hoạch chiến lược KTHĐ các chương trình, dự án, chính sách đầu tư phát triển và an sinh xã hội; (4) KTNN Việt Nam tổ chức KTHĐ nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của bộ máy quản lý, điều hành còn hạn chế, kết quả chưa cụ thể hoá, chưa thể hiện mục tiêu theo hướng dẫn quy trình đánh giá 3Es trong mô hình Logic, tiêu chí KTHĐ (đầu vào, đầu ra và kết quả) chưa xác định rõ ràng, phương pháp kiểm toán chung chung dẫn đến khó thực hiện trong các cuộc KTHĐ, KTV không muốn thay đổi loại hình kiểm toán cùng với việc thiếu tinh thần bằng văn bản, xây dựng chiến lược kiểm toán cụ thể, tập trung vào định hướng đánh giá trên cơ sở các tiêu chí theo hướng dẫn 3Es để đảm bảo mục tiêu giúp cho KTNN thực hiện tốt



kế hoạch KTHĐ chiến lược; (5) vai trò của KTNN Việt Nam và vị trí pháp lý chưa tương xứng với yêu cầu đề ra của các SAIs trong khu vực. Vai trò của KTNN được thiết chế độc lập nhưng chưa rõ ràng, thẩm quyền còn hạn chế khi quyết định các đối tượng kiểm toán, nhất là đối tượng kiểm toán thuế, đối tượng sử dụng quỹ công ngoài ngân sách; thiếu chế tài pháp lý trong hệ thống pháp luật KTNN mang tính pháp chế, quyền lực công; đối tượng được kiểm toán xem nhẹ kết quả kiến nghị, tham vấn của KTNN qua KTHĐ. Thẩm quyền ra quyết định tham mưu chiến lược hoạt động và tư vấn chính sách, hiệu lực chưa cao trong mối quan hệ với hệ thống QLTC, tài sản công tại các cấp QLNN. KTNN tăng cường củng cố năng lực KTHĐ, nâng cao vai trò, vị trí pháp lý ngang tầm với vai trò của KTNN các SAIs trong khu vực nhằm thiết chế quyền lực công thuộc về BMKT, việc đó có ý nghĩa giúp cho KTNN thể hiện được vai trò như Quốc hội và luôn được Quốc hội quan tâm, kiểm soát mọi hoạt động của KTNN để định hướng phát triển vững mạnh; (6) việc thực thi pháp luật thuộc thẩm quyền KTNN chưa có định chế xử phạt do còn chồng chéo với một số chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quyền lực khác; KTNN chưa triệt để hoàn toàn việc tinh giản bộ máy nhân sự cho phù hợp với năng lực và sở trường KTHĐ so với các SAIs trên thế giới có bề dày lịch sử phát triển loại hình KTHĐ,...

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ


1. Lê Xuân Thiện & Lữ Việt Thanh (2014), “Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt động thu, chi viện phí tại các cơ sở y tế công lập địa phương”, Tạp chí Kế toán - Kiểm toán, số tháng 3/2014.

2. Lê Xuân Thiện (2015), “Kiểm tra dự toán chi thường xuyên ngân sách của đơn vị sự nghiệp công”, Tạp chí Kế toán - Kiểm toán, số tháng 3/2015.

3. Lê Xuân Thiện (2015), “Phương pháp kiểm tra dự toán tiền lương trong dự toán ngân sách địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, số 89+90/3+4/2015.

4. Phan Trung Kiên & Lê Xuân Thiện (2015), “Kiểm toán hoạt động mua sắm thuốc tại các cơ sở y tế công lập: Thay đổi trong hoạt động đấu thầu và cải thiện hoạt động kiểm toán”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế quốc dân, số 211 (II).

5. Lê Xuân Thiện (2017), “Tăng cường pháp chế và chuẩn mực thực hiện kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý ngân sách-Quỹ công”, Tạp chí Kế toán - Kiểm toán, số tháng 3/2017 (158).

6. Lê Xuân Thiện (2018), “Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động chuyển giá ở các nước trên thế giới và giải pháp cho Việt Nam”, Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số tháng 5/2018.

7. Lê Xuân Thiện (2019), “Vai trò Kiểm toán Nhà nước với việc vận dụng mô hình kiểm toán hoạt động”, Tạp chí Kế toán - Kiểm toán, số tháng 1+2/2019 (184).

8. Lê Xuân Thiện (2019), “Tăng cường kiểm toán hoạt động đầu tư phát triển với các chương trình, chính sách hiện hành ở Việt Nam: Nghiên cứu trong lĩnh vực công - kiểm toán vì môi trường phát triển bền vững”, Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số tháng 3/2019.

9. Lê Xuân Thiện & Nguyễn Thị Thu Nga (2019), “Vai trò Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đối với ASOSAI và kinh nghiệm Quốc tế trong kiểm soát quản lý NSNN”, Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số tháng 3/2019.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí