Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp Được Xác Định Dựa Trên Thỏa Thuận Nội Bộ Của Doanh Nghiệp

kiện độ tuổi, năng lực hành vi và trong nhiều lĩnh vực đặc thù còn phải thỏa mãn các điều kiện về trình độ. Cụ thể như cá nhân đó được pháp luật cho phép thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực kinh doanh đặc thù, đủ độ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật, có năng lực nhận thức và thực hiện hành vi bình thường. Đơn cử như ở Anh, người từ đủ 16 tuổi trở lên, mới có thể được bổ nhiệm làm giám đốc của công ty [118; Điều 157]. Đối với Việt Nam, độ tuổi được trở thành người ĐDTPL phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Các trường hợp: người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên không đủ điều kiện để trở thành người ĐDTPL bởi khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có phạm vi rộng lớn sẽ đòi hỏi năng lực hành vi tốt với khả năng gánh trách nhiệm pháp lý độc lập. Đối với một số loại hình doanh nghiệp đặc thù như dược phẩm, y tế, chứng khoán..., điều kiện được đặt ra rất chặt chẽ như người đại diện phải có chứng chỉ, giấy phép hành nghề. Trong CTHD, thành viên hợp danh không được làm chủ DNTN hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.

Bên cạnh đó, tính hợp pháp ở đây còn thể hiện ở quy định của pháp luật yêu cầu về đăng ký thông tin của người đại diện theo quy định của LDN. Các đối tác của doanh nghiệp có thể trực tiếp giao dịch dựa vào danh tính của đại diện công ty được công bố. Nguyên tắc này được nhiều quốc gia quy định như quy định về đăng ký thông tin đối với giám đốc là thể nhân, quy định về đăng ký thông tin đối với giám đốc là pháp nhân trong Luật Công ty của Anh năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2018 [118, Điều 163, Điều 164], quy định người đại diện phải được đăng ký danh tính trong Sổ đăng ký thương mại do Tòa án quản lý trong Luật Công ty cổ phần Đức năm 1965, sửa đổi, bổ sung năm 2021 [119, Điều 125].

Theo đặc trưng này, việc đăng ký hoặc công bố danh tính của người đại diện với bên thứ ba có phải là yếu tố quyết định tới hiệu lực của quan hệ đại diện của doanh nghiệp hay không cần được làm sáng tỏ. Rò ràng, LDN quy định khi đăng ký thành lập doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu pháp lý: đăng ký thông tin cá nhân người đại diện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc ĐDTPL của doanh nghiệp có giá trị pháp lý và phát sinh hiệu lực khi đăng ký bởi đây là sự ghi nhận của Nhà nước về sự tồn tại hợp pháp của doanh nghiệp.

Trong trường hợp doanh nghiệp đã đăng ký thông tin người ĐDTPL nhưng thiếu sự công bố thông tin đó cho người thứ ba thì vấn đề cần giải quyết theo nguyên tắc đúng đắn: việc chưa công bố thông tin người đại diện không phải là điều kiện làm mất hiệu lực của ĐDTPL của doanh nghiệp. Mục đích của việc công bố thông tin nhằm thông báo cho bên thứ ba về người có thẩm quyền hợp pháp để ký hợp đồng thay mặt cho công ty. Trong trường hợp người thứ ba không biết quyền của người đại diện thì không thể ảnh hưởng đến tính hợp lệ của các giao dịch đã xác lập. Công ty không thể viện dẫn đến lý do sự thiếu công khai thông tin để tránh trách nhiệm phát sinh từ các thỏa thuận đã xác lập từ người ĐDTPL của doanh nghiệp. Có thể người đại diện đã xác lập giao dịch với ý chí rằng người ấy hành động thay mặt cho công ty, vì lợi ích của công ty thì đây được xem là đã thiết lập vai trò đại diện. Khi người đại diện đã hành động trên cơ sở của công ty, trong giờ làm việc và cho một hoạt động tương ứng với mục đích của công ty, người đó được coi là hành động với ý định đại diện cho công ty.

Nguyên tắc này cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong cách thức xử lý các trường hợp giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện hoặc không có thẩm quyền đại diện. Xem xét các quy định của pháp luật Việt Nam với nguyên tắc này sẽ cho thấy nhiều vấn đề cần giải quyết từ góc độ bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba.

2.2.3. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được xác định dựa trên thỏa thuận nội bộ của doanh nghiệp

Dù được điều chỉnh trong pháp luật song xét về bản chất, đây được xem là quan hệ pháp luật tư, cần tôn trọng sự lựa chọn người đại diện theo thỏa thuận của những người góp vốn trong công ty.

Dựa trên chức năng và sự gắn bó chặt chẽ giữa người đại diện với cơ cấu quản trị nội bộ công ty, đây là vấn đề nội bộ của công ty. Tùy thuộc vào cấu trúc quản trị, quy mô và phạm vi kinh doanh của công ty mà lựa chọn chế độ đại diện nào, phân bổ quyền đại diện cho một người hay nhiều người. Mặt khác, đặc điểm này cũng thể hiện rò trong một loạt các quy định của pháp luật quy định về thành lập doanh nghiệp, trong đó, một trong các thông tin được đăng ký với cơ quan nhà nước là thông tin người đại diện. Việc thay đổi người đại diện cũng được trao quyền của nội bộ doanh nghiệp và pháp luật chỉ quy định ở việc công bố thông tin cho người thứ ba thông qua việc đăng ký sự thay đổi với cơ quan nhà nước.

Bên cạnh đó, những vấn đề như thẩm quyền đại diện, phạm vi đại diện được quy định trong Điều lệ doanh nghiệp, quy chế nội bộ hay thậm chí là hợp đồng lao động giữa người đại diện với doanh nghiệp cũng ràng buộc người ĐDTPL. Đối với các nước Anh, Mỹ, còn có sự ràng buộc quyền và lợi ích giữa hai bên thông qua hợp đồng ủy thác của các bên [71, tr28]. Đây được xem là cơ chế tự điều chỉnh của doanh nghiệp nên ít nhiều mang tính lựa chọn, tùy nghi, miễn là không trái với pháp luật.

Tuy nhiên, sự lựa chọn tùy nghi này không tuyệt đối mà vẫn cần có sự can thiệp của pháp luật. Ví dụ như: căn cứ phát sinh, chấm dứt quan hệ ĐDTPL của doanh nghiệp, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện của người đại diện của doanh nghiệp, hậu quả pháp lý của các giao dịch không đúng quy định về thẩm quyền đại diện hay các quyền và nghĩa vụ của người đại diện. Những quy định này là bắt buộc phải tuân thủ chứ không phụ thuộc vào sự lựa chọn của nội bộ thành viên trong doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Theo lý thuyết pháp lý liên quan đến bản chất pháp lý công ty và lý thuyết quản trị doanh nghiệp, mức độ của pháp luật trong việc can thiệp vào đại diện của doanh nghiệp có sự khác nhau. Nếu lý thuyết giả tưởng chủ trương đề cao sự cần thiết và vai trò pháp luật điều chỉnh mối quan hệ đại diện của pháp nhân thì lý thuyết hiện thực cho rằng pháp luật không tạo ra công ty mà chỉ thực hiện việc ghi nhận và điều chỉnh dựa trên sự tồn tại độc lập của doanh nghiệp [75;tr 296]. Phân tích cho thấy pháp luật doanh nghiệp trong cách tiếp cận nào cũng cần quy định về ĐDTPL xuất phát từ các nguyên nhân như:

Thứ nhất, trong doanh nghiệp có tư cách pháp nhân thì người đại diện và doanh nghiệp gắn bó với nhau. Các hành vi của người đại diện trong thẩm quyền đại diện là hành vi của doanh nghiệp và sẽ ràng buộc doanh nghiệp. Người đại diện theo vai trò như là hiện thân của doanh nghiệp và đương nhiên, các hành vi này dựa trên nền tảng quyền và nghĩa vụ doanh nghiệp có. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh, do ở vị thế tiếp cận nhiều thông tin và có quyền quyết định giao dịch nên người đại diện có thể nhận thấy nhiều lợi ích cá nhân từ đó. Lợi ích cá nhân khác với lợi ích của công ty trong quá trình kinh doanh, thậm chí xung đột với lợi ích của công ty nên cần có sự quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong văn bản pháp luật.

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 8

Thứ hai, trên thực tế người ĐDTPL của doanh nghiệp thường có quyền lực rất lớn. Người đại diện trở thành người phê duyệt cuối cùng khi xác lập hợp đồng, trở thành người kiểm soát cuối cùng về tài chính của công ty và chịu trách nhiệm cho mọi hành động của công ty. Do đó, mô hình ĐDTPL được quy định trong văn bản luật nhằm mục đích thiết lập cơ chế quản trị theo hướng quyền đại diện không tập trung tuyệt đối vào một chủ thể và có sự giám sát tốt trong nội bộ của công ty.

Đặc điểm này ảnh hưởng đến việc xác định nguyên tắc can thiệp của pháp luật trong quan hệ ĐDTPL. Pháp luật không nên quy định mô hình đại diện của doanh nghiệp thống nhất, độc lập bởi các nhà lập pháp không thể biết được đặc điểm và quy mô của mỗi doanh nghiệp. Do đó, sẽ là cứng nhắc, không phát huy được sự linh hoạt và làm mất thời gian, gia tăng chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp. Thay vào đó, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đăng ký và công bố thông tin. Trong trường hợp đặc biệt, pháp luật chỉ can thiệp vào các nguyên tắc chung mà doanh nghiệp đã thiết lập khi không xác định được người đại diện hợp pháp. Thậm chí, có thể tuyên bố các thỏa thuận phân chia thẩm quyền và trách nhiệm của những người đại diện là vô hiệu khi có thỏa thuận có dấu hiệu vi phạm điều cấm pháp luật, vi phạm sự tự nguyện và nguyên tắc công bằng. Đây được xem như một ngoại lệ và bổ sung cho quyền tự chủ hợp pháp của doanh nghiệp.

2.2.4. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp

Có thể khẳng định rằng doanh nghiệp được tạo ra cho một mục đích cụ thể, thường có sự tách biệt với những người thành viên của doanh nghiệp. Do đó, lợi ích doanh nghiệp không phải là lợi ích cá nhân của các cổ đông/thành viên. Doanh nghiệp được xem là một đơn vị kinh tế, theo đuổi những mục tiêu hợp pháp với quy mô hoạt động, quan hệ với đối tác, các khách hàng, người lao động, cộng đồng và xã hội để đảm bảo sự thịnh vượng và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Theo góc độ đó, lẽ dĩ nhiên, lợi nhuận thu được sẽ là của doanh nghiệp. Lợi ích doanh nghiệp phải được hiểu là lợi ích của một chủ thể độc lập, được đề cao bởi mục tiêu hoạt động kinh doanh, giá trị kinh tế, giá trị xã hội mà doanh nghiệp đưa lại cho quốc gia, cộng đồng chứ không đơn thuần chỉ là

quyền lợi kinh tế của chủ sở hữu. Điều này đồng nghĩa với việc người ĐDTPL phải thực hiện các hành vi phù hợp nhất để bảo vệ lợi ích doanh nghiệp, duy trì và phát triển các điều kiện thuận lợi nhất của doanh nghiệp. Điều này được minh chứng trong quy định của pháp luật một số nước như Anh. Luật Công ty của Anh năm 2006, sửa đổi năm 2018 yêu cầu: “các giám đốc phải xem xét, hành động, hướng tới (a) thành công lâu dài của công ty, (b) quyền lợi của nhân viên, (c) mối quan hệ với các nhà cung cấp, khách hàng và các bên liên quan, (d) tác động tới cộng đồng và môi trường, (e) uy tín của công ty và (f) đối xử công bằng với các cổ đông” [118; Điều 172]. Từ quy định này cho thấy Anh đã đi theo phương hướng ưu tiên quyền lực của người đại diện – các giám đốc được gợi ý lựa chọn bảo vệ lợi ích các bên theo thứ tự ưu tiên trong đó, lợi ích của cổ đông được đặt phía sau lợi ích doanh nghiệp. Pháp không đứng ngoài xu thế trên khi quy định “Bất kỳ công ty nào cũng có lợi ích hơp pháp và được tổ chức vì lợi ích của các thành viên công ty. Công ty phải xem xét đến lợi ích xã hội, bao gồm các vấn đề xã hội và môi trường trong hoạt động của mình” [114; Điều 1833].

Mặt khác, không chỉ có người ĐDTPL của doanh nghiệp là người phải tôn trọng lợi ích doanh nghiệp mà bản thân thẩm phán khi giải quyết các vụ án có liên quan đến quyền lợi của cổ đông/thành viên công ty cũng phải xem xét lợi ích của doanh nghiệp trước. Trong văn bản pháp luật không có khái niệm về lợi ích của doanh nghiệp nên việc xác định sẽ mang tính chất trìu tượng, phụ thuộc vào từng vụ việc cụ thể.

2.2.5. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là cá nhân hoặc pháp nhân

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là cá nhân hoặc pháp nhân bởi xét trong quan hệ đại diện, các yếu tố cần thiết chứng minh sự tồn tại và hiệu lực của quan hệ đại diện gồm có: thể hiện rò ý chí đại diện, nhân danh người được đại diện và vì lợi ích của người được đại diện. Thể nhân hay pháp nhân đều có thể xác định ý chí của họ. Tuy nhiên, đối với pháp nhân, ý chí của pháp nhân được thể hiện ra bên ngoài bằng ý chí tập thể của tất cả các thành viên pháp nhân vì lợi ích chung chứ không phải là ý chí của từng người sở hữu pháp nhân. Do đó, pháp nhân luôn phải có thể nhân thay mặt họ thực hiện

quyền đại diện trong một doanh nghiệp khác mà pháp nhân đó là cổ đông/thành viên. Về mặt lí luận, vấn đề này không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp khi người ĐDTPL là pháp nhân có thể nhân là người đại diện thường trực. Thậm chí điều này rất có lợi cho hoạt động chỉ đạo của công ty mẹ, công ty con trong việc điều hành hoạt động doanh nghiệp được thống nhất..

Các nhà lập pháp Việt Nam quy định người ĐDTPL của doanh nghiệp chỉ có thể là thể nhân trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, từ DNTN đến CT TNHH, CTCP hay CTHD. Luật doanh nghiệp hiện nay không có quy định nào về trường hợp ĐDTPL của doanh nghiệp là một pháp nhân khác. Có lẽ các nhà làm luật của Việt Nam cho rằng nếu người đại diện cũng là một pháp nhân thì ý chí của người đại diện vẫn phải xác định thông qua ý chí của cá nhân. Do đo, quy định một thể nhân với thông tin rò ràng, khả năng thực hiện hành vi cụ thể khi đại diện cho doanh nghiệp sẽ tạo được niềm tin cho bên thứ ba khi giao dịch. Mặt khác, điều đó sẽ tránh được các bước chuyển liên tiếp về người thực hiện quyền đại diện thực sự, làm cho cơ chế quản trị doanh nghiệp và giám sát sẽ trở nên phức tạp hơn. Điều đó, xét từ thực tế hoạt động và kinh nghiệm quản trị của doanh nghiệp Việt Nam chưa có hiệu quả cao. Do đó, pháp luật Việt Nam lựa chọn thể nhân là chủ thể hợp lý và duy nhất cho vai trò ĐDTPL.

So sánh với quy định một số quốc gia như Pháp, Anh, người quản lý nắm quyền đại diện có thể là pháp nhân không phải là quy định mới. Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807 sửa đổi, bổ sung một số điều tháng 9/2020 đã quy định: Trong CTCP, người được giao quyền quản lý và quyền đại diện cho công ty là Tổng Giám đốc – có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Chủ tịch có thể ủy quyền cho một hoặc một số giám đốc điều hành của công ty [117, Điều 225-20]. Quy định này cho phép pháp nhân được trao quyền điều hành, quyền quản lý công ty và nắm giữ quyền đại diện. Về khả năng, một pháp nhân có thể thực hiện hoạt động quản lý khi họ có một “đại diện thường trực” luôn có mặt tại trụ sở của công ty. Người đại diện thường trực này phải thỏa mãn những điều kiện như một người đại diện là thể nhân. Các nhà lập pháp của Pháp chỉ hạn chế pháp nhân được giao quyền điều hành CTCP do quy mô và cổ đông đa dạng của loại hình doanh nghiệp này, chứng tỏ quyền đại diện không được phân bố rộng rãi cho các pháp nhân. Tương tự như Pháp, nước Anh cho phép người đại diện của

công ty - Giám đốc (Director) có thể có nhiều người, trong số đó phải có có ít nhất một giám đốc là một thể nhân. Pháp nhân có thể trở thành người quản lý khi có thể nhân đại diện cho họ tiến hành hoạt động quản trị. [118, Điều 225-20].

Với vị trí, vai trò quan trọng của người ĐDTPL trong doanh nghiệp, sự gắn kết của chủ thể có quyền đại diện trong cơ cấu quản trị doanh nghiệp, việc quy định về điều kiện người đại diện là cần thiết. Do quy định của từng quốc gia trong việc gắn kết người quản lý có quyền đại diện nên phân bổ vị trí đại diện có thể là cá nhân hoặc người đại diện thường trực của pháp nhân là cổ đông thành lập.

2.3. Vai trò của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Người ĐDTPL có vai trò quan trọng trong sự phát triển vững mạnh của doanh nghiệp thông qua việc thúc đẩy các hoạt động và định hướng hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ quy định của pháp luật. Điều này xuất phát bởi nguyên do, về mặt pháp lý, người đại diện phải chịu trách nhiệm cuối cùng về doanh nghiệp với người thứ ba và Nhà nước. Trách nhiệm đó làm cho người đại diện khi thực hiện nhiệm vụ phải rà soát lại các quyết định, giao dịch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích doanh nghiệp nhưng không trái quy định của pháp luật và phòng tránh rủi ro về mặt pháp lý trở thành yếu tố bắt buộc. Mặt khác, tiêu chí đánh giá quản trị trong doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng thu hút sự hợp tác từ các đối tác. Điều này thể hiện rò ở các CTCP đại chúng khi công bố thông tin theo định kỳ theo quy định của Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

Thiết lập mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của các cổ đông góp vốn vào công ty. Theo lý thuyết đại diện từ góc độ kinh tế học pháp luật, khi có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành thì mâu thuẫn giữa người đại diện và chủ sở hữu doanh nghiệp cũng xuất hiện. Các xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu với người đại diện bao gồm: người đại diện không nỗ lực vì họ chỉ sở hữu một tỷ lệ vốn nhỏ hoặc người đại diện mong muốn mở rộng hoạt động kinh doanh để đảm bảo vị trí và thu nhập trong khi cổ đông muốn chia cổ tức tiền mặt khi công ty có lãi. Đó cũng có thể là trường hợp chủ sở hữu muốn đầu tư vốn dài hạn còn người quản lý quan tâm những dự án có lợi nhuận, những lĩnh vực phù hợp với kỹ năng và lợi ích của mình [76, tr295]. Đối với các công ty lớn, có lịch sử hoạt động lâu, dòng tiền vốn nhàn rỗi

lớn thì nguy cơ người đại diện sử dụng tiền vào mục đích riêng của mình có khả năng xuất hiện mà việc kiểm soát không hề đơn giản. Do đó, với việc xây dựng quy chế hỗ trợ, quy định trách nhiệm và đánh giá hoạt động của người ĐDTPL một cách hợp lý sẽ bảo vệ tốt cho các thành viên góp vốn.

Xác định mô hình ĐDTPL hoàn hảo sẽ bảo vệ được lợi ích của các đối tác của doanh nghiệp, người tiêu dùng và Nhà nước, được gọi chung là các bên có liên quan. Đối với các bên liên quan, sự tồn tại của doanh nghiệp là một tổ chức phức tạp, chỉ khi thông qua người đại diện như là một sự liên kết tạo lòng tin, tạo hình ảnh hữu hình có thực. Các bên liên quan cần có người cụ thể để thỏa thuận nội dung và chịu trách nhiệm khi vi phạm. Theo lý thuyết các bên liên quan (stakeholder theory), các bên liên quan có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bởi đó là các đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các quyết định của doanh nghiệp. Song song với mục tiêu lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của các thành viên góp vốn, lợi ích các bên liên quan cần được xem xét như là một lợi ích cần cân bằng. Việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, của thành viên góp vốn hay các bên liên quan cần được thiết lập và thực hiện một cách hài hòa trong hoạt động của người đại diện của doanh nghiệp.

Qua phân tích trên, từ việc thấy rò vai trò của người ĐDTPL, các nhà lập pháp càng nhận thấy cần phải có quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ này. Bởi đại diện được xem là nền tảng của tổ chức doanh nghiệp – một tổ chức được thành lập và hoạt động trên cơ sở khung pháp luật tư nên cơ chế điều chỉnh cũng được thiết lập dựa trên tiêu chuẩn nhất định

2.4. Sự chi phối của các lý thuyết pháp lý tới lựa chọn mô hình đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Nghiên cứu về các lý thuyết pháp lý ảnh hưởng tới xác định mô hình đại diện phù hợp có nghĩa là phải xác định rò nội dung cũng như ưu, nhược điểm của từng lý thuyết đó trong mối quan hệ với quản trị doanh nghiệp để lựa chọn mô hình đại diện phù hợp. Mô hình đó được xem xét từ góc độ lí luận phải phù hợp với lý thuyết về quản trị doanh nghiệp hiện đại và chức năng của luật doanh nghiệp.

Như đã giới thiệu tại mục 1.1.1 phẩn tổng quan và mục 2.1.1 phần khái niệm ĐDTPL của doanh nghiệp về các lý thuyết pháp lý về bản chất công ty, có thể thấy các lý thuyết được chia thành 2 dòng chủ đạo: lý thuyết giả tưởng

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí