Lí luận văn học Phần 1 - 13


đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức, Tiệp trong Bão biển của Chu Văn là những người anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh nhưng cũng mang những đức tính cổ truyền của dân tộc như sự dịu hiền, sự tương thân, tương ái, lòng yêu quê hương, làng xóm...

Cần chú ý rằng, ở những bài thơ trữ tình thuần túy thì tâm hồn và tính cách dân tộc của nhà thơ, của nhân vật trữ tình là ở chỗ rung động và thể hiện những nét bản chất của dân tộc mình. Nhà thơ Tố Hữu đã nêu lên cảm xúc của mình về con người Việt Nam qua

bài thơ Chào xuân 67. Ở bài thơ này tác giả đã nói về truyền thống và lòng tự hào dân tộc, về những đức tính của con người Việt Nam - những con người mà: Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn, và Vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay.

Có thể nhắc đến một số đặc thù về hình thức, tính cách và ý thức thẩm mĩ của dân tộc Việt Nam để tham khảo như sau:

Thí dụ, về vẻ đẹp hình thức của phụ nữ Việt Nam, đã được dân gian đúc kết: lông mày lá liễu, mắt bồ câu, mắt đen hạt nhãn, mắt lá răm, má lúm đồng tiền: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền...

Về tính cách, những tính cách được trân trọng và ca ngợi thường là những con người có chí khí, có lối sống rộng rãi, phóng khoáng: Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng (ca dao). Đó là những nếp sống hiền lành, chịu thương chịu khó, cần cù, chăm chỉ, khiêm nhường, chịu đựng, hiếu thảo: Thị Kính chịu tiếng oan cả một đời không thanh minh (Chèo Quan âm thị Kính), Lục Vân Tiên thương mẹ khóc mù cả mắt (Lục Vân Tiên), nàng Thoại Khanh cắt thịt mình cho mẹ chồng ăn trong cơn ốm đau (Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn)...

Đặc biệt, thường được ngợi ca là những con người sống có tình có nghĩa: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay; Mẹ già ở túp lều tranh, Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con; Cây đa cũ, bến đò xưa, Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ (ca dao).

Hình mẫu lí tưởng là con người hài hòa cả hai mặt, hình thức và tâm hồn, tính cách như những Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên, hoặc những người phụ nữ bình dân: Những người thắt đáy lưng ong, Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.

Người Việt còn một số đặc thù về cách tư duy, cách nghĩ và cách cảm trong việc nhận thức, đánh giá, cảm thụ và biểu hiện thế giới và con người. Có thể nói, tính dân tộc biểu hiện rõ nhất qua cái nhìn và cách ứng xử của con người đối với cuộc sống.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Đó là phong cách sống hài hòa với thiên nhiên. Con người trong văn học thường được tái hiện trong mối quan hệ với thiên nhiên, bởi thiên nhiên là môi trường sống, là điều kiện tồn tại, hoạt động, là nơi giãi bày tình cảm. Không như quan niệm của người phương Tây về thiên nhiên, là chiếm đoạt và thống trị thiên nhiên, người Việt thường coi mình là một phần của thiên nhiên với tất cả tình cảm, tư tưởng, bổn phận và trách nhiệm của mình. Cùng

một kết quả là trắng tay trong việc chinh phục thiên nhiên, nhưng trong Ông già và biển cả (Hêmingwê), là hình ảnh con người luôn khát khao chiến thắng tự nhiện dù sức lực đã cạn kiệt, khác hẳn ý tưởng con người sống hài hòa với thiên nhiên mới là hạnh phúc trong Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp).

Lí luận văn học Phần 1 - 13

Người Việt thường lấy thiên nhiên làm thước đo cho nhịp điệu sống. Đó là một nhịp điệu chậm, tuần hoàn, tuân theo nông lịch: Bao giờ đom đóm bay ra, Hoa gạo rụng xuống thì tra


hạt vừng (ca dao). Vẻ đẹp con người luôn được so sánh với thiên nhiên, một thiên nhiên đặc thù dân tộc: mắt đen hạt nhãn, da trắng như trứng gà bóc, tóc mềm như mây, lông mày lá liễu: Những người con mắt lá răm, Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền (ca dao). Khi miêu tả người, người Việt Nam thường dùng hình ảnh cỏ cây hoa lá để tăng khả năng biểu hiện, bởi quan niệm con người luôn chỉ là một phần của thiên nhiên, là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ mênh mông. Nguyễn Du miêu tả Thúy Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh; Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.

Thiên nhiên còn làm thước đo tình cảm của con người: Ba thu dồn lại một ngày dài ghê (Nguyễn Du)); Chỉ một ngày nữa thôi, em sẽ, Trở về, nắng cũng mong, cây, Cũng nhớ, ngõ cũng chờ, và bướm, Cũng thêm màu trên đôi cánh đang bay (Chế Lan Viên).

Các màu sắc miêu tả thế giới cũng được định vị bằng màu sắc của thiên nhiên: xanh cốm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh bói cá, xanh cánh trả, vàng mơ, vàng gà con, vàng cam, vàng nghệ, vàng chanh, vàng hoa mai, hồng đào, hồng phấn... Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, không phải ngôn ngữ dân tộc nào cũng có kiểu kết cấu tạo từ màu sắc dựa trên màu sắc thiên nhiên giống như vậy.

Con người sống hài hòa với thiên nhiên là một nếp sống đáng trân trọng, đẹp đẽ. Thiên nhiên như người bạn: Xem sách chim rừng vào cửa đậu, Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi (Hồ Chí Minh); Người đi rừng núi trông theo bóng Người (Tố Hữu). Thiên nhiên như chốn trở về, hướng tới cái yên tĩnh của tâm hồn, xa cách với cái ồn ào xô bồ của đời sống thành thị, về với thiên nhiên là hứa hẹn sự cân bằng nội tâm, hài hòa và thanh thản.

Người Việt thiên về cái vừa phải, trung tính, nhã nhặn: Về kích thước của mọi sự vật nói chung, người Việt Nam thích mọi sự vật phải vừa phải, không thích to quá hoặc nhỏ quá. Người Việt thích cái bé bé, xinh xinh. Các chàng trai khi tìm người yêu cũng phải thốt lên: Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu, anh thấy em nhỏ xíu anh thương (ca dao); Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Nguyễn Bính).

Trong giao tiếp, và cách thổ lộ tình cảm, người Việt tránh nói thẳng, ưa sự kín đáo, nhẹ nhàng, dịu dàng, tinh tế, đề cao sự tế nhị. Những cách tỏ tình lòng vòng: Tre non đủ lá đan sàng hay chưa?, Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?; Tóc đến lưng vừa chừng em bới, Để chi dài bối rối dạ anh (ca dao) là phổ biến. Tình cảm có thể rất sâu sắc, nồng nàn nhưng cách biểu lộ không mạnh mẽ, ồn ào mà nhẹ nhàng, kín đáo. Những bài thơ kiểu Hương thầm (Phan Thị Thanh Nhàn), Núi Đôi (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam)... là thí dụ.

Người Việt Nam ưa thực tiễn, linh hoạt. Vì tính thực tiễn cao, cho nên lòng yêu đời, ham sống, ý chí lạc quan của người Việt thật mãnh liệt: Ao trường vẫn nở hoa sen, Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu (Trần Đăng Khoa). Tính linh hoạt khiến người Việt dễ dàng thích nghi với những thay đổi của điều kiện sống.

Ngôn từ dân tộc cũng có những đặc thù riêng biệt. Câu văn tiếng Việt trầm bổng như âm nhạc nhờ thanh điệu cao thấp. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, quấn quýt, êm ái phù hợp thị hiếu dân tộc.


8.3.3 Tính dân tộc của văn học là một phạm trù lịch sử

Tính dân tộc của văn học là một phạm trù lịch sử. Nét độc đáo của một dân tộc được hình thành trong cả một quá trình lịch sử lâu dài. Trong quá trình phát triển không ngừng của cuộc sống, có những đặc thù dân tộc vẫn được giữ vẹn toàn theo năm tháng, nhưng vẫn có


yếu tố dần dần bị gạt bỏ và được bổ sung thêm bằng những yếu tố mới nảy sinh. Ví như tục ăn trầu, mặc áo chùng thâm, tóc vấn đuôi gà... không còn xuất hiện trong cuộc sống hiện đại, nhưng lòng nhẫn nại, sự thuỷ chung, bình dị, hồn nhiên, tính linh hoạt... vẫn là đặc điểm truyền thống lâu bền của dân tộc Việt Nam.

Vì vậy, văn học dân tộc chỉ có thể phát triển lành mạnh, đậm đà trên cơ sở kế thừa các truyền thống, bởi vì truyền thống giữa gìn các tư tưởng và tình cảm thẩm mĩ, kinh nghiệm nghệ thuật của ông cha, khêu gợi cảm hứng sáng tác mới. Ông Phạm Văn Đồng đã từng nói:

Truyền thống là vốn quý báu vô cùng, di sản của biết bao thế hệ, bông hoa thơm nhất của

dân tộc... Muốn viết văn mà không học tập vốn văn nghệ của dân tọc thì làm sao được4.

Nhưng kế thừa không phải là lặp lại giản đơn mà là sử dụng và cắt nghĩa lại, đổi mới, thậm chí nhiều khi đi ngược lại truyền thống cũ, để mở ra truyền thống mới. Thí dụ, hình ảnh vầng trăng xẻ nửa là hình ảnh truyền thống về sự chia li, nhưng trong bài thơ Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu, một nửa vầng trăng còn có nghĩa là sự cô đơn không thể chia sẻ.

Sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nước ngoài là rất cần thiết trong việc mở rộng những kinh nghiệm nghệ thuật nhân loại cho văn học dân tộc. Nhưng sự tiếp thu đích thực không bao giờ là sự sao chép nô lệ, mà là một sáng tạo. Sự tiếp thu sáng tạo này lại thể hiện bản lĩnh của dân tộc. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong hơn mười thế kỉ Bắc thuộc, mặc dù bọn thống trị phong kiến Trung Hoa tìm mọi cách áp đặt văn hóa của chúng cho người Việt, nhưng ảnh hưởng của nó lại rất ít. Trái lại, chỉ sau khi Việt Nam giành độc lập vào thế kỉ thứ X thì việc tiếp thu trở thành nhu cầu và đã là một nhân tố không thể thiếu được để xây dựng nền văn hóa dân tộc. Về vấn đề này ông Trường Chinh đã nói: “Văn hóa dân chủ mới tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc... Song đồng thời nó sẵn sàng hấp thu những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ của văn hóa nước ngoài 5. Như vậy rõ ràng là học tập tinh hoa văn hóa của nước ngoài là một cách làm giàu cho văn hóa dân tộc.


8.3.4 Vài nét về quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân loại của văn học

Con người ngoài cộng đồng dân tộc, còn có cộng đồng quốc tế và nhân loại. Tất cả các dân tộc đều sống trên trái đất, trong một bầu khí quyển, dưới một bầu trời cao, một ánh sáng mặt trời. Họ đều chịu sự tác động của các quy luật chung của tự nhiên và xã hội. Đó là cơ sở khách quan của tính nhân loại và tính quốc tế của văn nghệ, tạo thành những nét cộng đồng nhân loại trong văn nghệ các dân tộc.

Lí luận macxít phủ nhận thuyết tính người chung chung, siêu giai cấp nhưng không phủ nhận tính nhân loại. Tính nhân loại là những đặc thù mà bất cứ một con người nào cũng có thể có. Trong mỗi con người cụ thể, đều có những thuộc tính bản chất của con người (khác với động vật) như tính xã hội, vai trò chủ thể cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, có khả năng cảm thụ thế giới và bản thân một cách sâu sắc, có khả năng sáng tạo, có một thế giới tâm hồn và tư tưởng phong phú... Có thể nhận thấy là hầu hết các phẩm chất tốt đẹp của nhân loại đều gắn liền với hoạt động sản xuất xã hội của nó. Chính nhờ sản xuất xã hội (tức là sản xuất cho người khác) mà con người biết yêu quý người khác như yêu mình, coi sự phát triển toàn diện của một cá nhân là điều kiện cho sự phát triển của mọi người; biết


4Về văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972, trang 336

5Về văn hóa văn nghệ (sách đã dẫn), trang 158


yêu lao động, yêu thiên nhiên và mọi thành quả sáng tạo của con người... Trong quá trình phát triển lịch sử của nhân loại, con người ngày càng phát triển những phẩm chất cao nhất như phẩm giá cá nhân, tình cảm tôn giáo, sự thẳng thắn, lòng dũng cảm, yêu tự do, yêu hòa bình, ghét bất công, biết hi sinh... Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những nét xấu trong tính cách: sự phản trắc, tàn nhẫn, cuồng tín, xa hoa, lười biếng, tham lam...

Trong tương quan với tính nhân loại, tính dân tộc bộc lộ một phương diện giá trị khác. Dân tộc là bộ phận của nhân loại, tính dân tộc là biểu hiện đặc thù của tính nhân loại, mở ra những khả năng phát triển khác nhau của nhân loại và nhờ vậy các dân tộc có thể làm phong phú cho nhau. Minh chứng cho điều này là các dân tộc khác nhau đều yêu chuộng tinh hoa văn nghệ của dân tộc khác, học tập ở dân tộc khác.


8.4 Hướng dẫn học tập

8.4.1 Về vấn đề tính giai cấp

Kiến thức cơ bản cần nắm vững

1. Khi xã hội phân chia giai cấp là có đấu tranh giai cấp và các giai cấp trong xã hội luôn luôn dùng văn học làm vũ khí đấu tranh, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình chống lại các giai cấp khác.

Tìm những câu ca dao, những câu chuyện dân gian thể hiện sự chống đối của nhân dân lao động đối với giai cấp thống trị tàn bạo.

2. Hiểu sâu sắc tính giai cấp trong văn học là một thuộc tính tất yếu chứ không phải phẩm chất và lí giải tại sao như vậy?

3. Tính giai cấp trong văn học biểu hiện chủ yếu ở các phương diện


Sự lựa chọn đề tài để phản ánh (cho ví dụ)

Cách xử lí đề tài đã đặt ra trong tác phẩm (cho ví dụ)

Cách xây dựng nhân vật lí tưởng (cho ví dụ)

Hình thức thể hiện

Câu hỏi

1. Giải thích nhận xét của M. Gorki: Nhà văn là con mắt, là tiếng nói, là lỗ tai của một giai cấp. Nhà văn có thể khônng có ý thức về điều đó, nhưng bao giờ nhà văn cũng là một bộ phận, một cảm quan của giai cấp.

2. Tính giai cấp của văn học biểu hiện ở những phương diện nào? Cho dẫn chứng để chứng minh.


Bài tập

1. Phân tích bài thơ Là thi sĩ của Sóng Hồng và rút ra những nhận xét về tư tưởng và quan niệm của tác giả.

2. Phân tích những câu ca dao sau đây và rút ra những kết luận cần thiết


Con vua thì lại làm vua

Con sãi ở chùa thì quét lá đa Bao giờ dân nổi can qua

Con vua thất thế lại ra quét chùa.


8.4.2 Về vấn đề tính nhân dân

Kiến thức cơ bản cần nắm vững

1. Tính nhân dân trong văn học là một phẩm chất giai cấp khác với tính giai cấp là ở chỗ: Sự tri giác của nhà văn đối với sáng tác là sự hiểu biết của nhà văn về cuộc sống, về những khát vọng chính đáng của nhân dân.

2. Khái niệm tính nhân dân trong văn học dùng để khẳng định, đánh giá những giá trị tốt đẹp của những tác phẩm văn học phản ánh chân thực cuộc sống, là những tác phẩm tiến bộ được nhân dân yêu thích.

3. Khi xem xét đánh giá một tác phẩm văn học có tính nhân dân sâu sắc hay không cần chú ý tới các tiêu chuẩn cơ bản sau:

1. Về nội dung:


Tác phẩm có miêu tả được những vấn đề có liên quan tới cuộc sống của nhân dân không? hoặc là có nêu lên được những vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc, với đất nước hay không?

Nhà văn giải quyết vấn đề đặt ra trong tác phẩm theo quan điểm của giai cấp nào? Có thể hiện được những tư tưởng tiến bộ của xu hướng phát triển lịch sử không?

2. Về hình thức nghệ thuật:: Tác phẩm có tính nhân dân phải đạt tới tính phổ cập và tính nâng cao.


Câu hỏi

1. Trong hoàn cảnh nào thì sự phản ánh hiện thực khách quan của nhà văn vào tác phẩm văn học mới có tính nhân dân?

2. Phân tích, làm rõ hai khái niệm tính giai cấp trong văn học là thuộc tính, tính nhân dân là phẩm chất. Cho ví dụ để chứng minh?

3. Khi xem xét tác phẩm văn học có tính nhân dân hay không ta cần chú ý tới những tiêu chuẩn gì?


Bài tập

1. Những câu thơ sau đây trong bài thơ Tiếng hát con tàu của nhà thơ Chế Lan Viên đã thể hiện tư tưởng và khát vọng gì? Chỉ ra cái hay của những câu thơ đó:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.


2. Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt được coi là tác phẩm văn học có tính nhân dân sâu sắc. Hãy phân tích và chứng minh nhận định ấy.

3. Quan điểm của nhân dân được thể hiện như thế nào qua truyện cổ tích Tấm Cám?


8.4.3 Về vấn đề tính dân tộc

Kiến thức cơ bản cần nắm vững

1. Văn học là gương mặt tiêu biểu của văn hóa dân tộc. Khái niệm dân tộc gắn liền với một quốc gia. Nền văn học được sản sinh ra thuộc về một quốc gia, một dân tộc nhất định.

2. Tính dân tộc trong văn học vừa là thuộc tính, vừa là phẩm chất. Cần hiểu rõ nội hàm của hai khái niệm này.

3. Tính dân tộc biểu hiện sâu sắc là ở nội dung. Ở phương diện này tác phẩm văn học có tính dân tộc phải đạt được những yêu cầu nào?

4. Tính dân tộc là một phạm trù vận động và phát triển. Tính dân tộc và tính nhân loại có quan hệ với nhau nhưng không phải là một. Cần hiểu kỹ vấn đề này để có thái độ đúng đắn về vị trí của dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế.


Câu hỏi

1. Tính dân tộc của văn học biểu hiện ở những phương diện nào? Hãy phân tích và cho dẫn chứng

2. Ở phương diện nội dung tác phẩm văn học có tính sâu sắc đòi hỏi phải thể hiện được những vấn đề gì? Cho ví dụ.

3. Tại sao nói tính dân tộc là một phạm trù lịch sử? Mối quan hệ giữa dân tộc và nhân loại?


Bài tập

1. Qua bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy bạn thấy vẻ đẹp gì của đất nước và con người Việt Nam?

2. Truyền thuyết Thánh Gióng đã thể hiện được truyền thống và khát vọng tốt đẹp gì của dân tộc qua trường kì lịch sử?


Tài liệu tham khảo

1. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà. Lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1983

2. Phương Lựu. Tìm hiểu một nguyên lí văn chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983

3. Ngô Đức Thịnh. Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí Cộng sản, Số 3, 2/2001

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/02/2024