Về Kiểm Soát Việc Tuân Thủ Nguyên Tắc Thị Trường, Minh Bạch Thông Tin

(vi) Số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực cũng như công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giám sát tài chính còn nhiều yếu kém, bất cập. Công nghệ thu thập, xử lý thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa còn lạc hậu; trong khi đó, hiệu quả hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc nhiều về khả năng thu thập thông tin, nhất là có được một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác.

b. Nguyên nhân của những hạn chế trong thanh tra, giám sát ngân hàng

Nội dung giám sát chưa đầy đủ và toàn diện: Các nội dung về giám sát trong các quyết định hiện hành chưa đề cập tới hoạt động QTRR trong nội bộ các ngân hàng cũng như việc đánh giá chiến lược QTRR trong nội bộ các ngân hàng.

Phương pháp giám sát chưa rõ ràng: Phương pháp giám sát truyền thống của NHNN là thanh tra và kiểm tra tính tuân thủ của NHTM đối với các quy định pháp lý về hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, phương pháp này hiện nay đang tỏ ra kém hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng đang phát triển cả về số lượng, quy mô và loại hình. Việc xác định phương pháp giám sát phù hợp đang là câu hỏi đặt ra cho NHNN giữa việc lựa chọn phương pháp giám sát dựa trên rủi ro hay giám sát theo CAMELS.

Quy trình giám sát chưa thống nhất: Quy trình giám sát của NHNN chưa tạo được sự phối hợp giữa công tác thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa. Các bước trong quy trình vẫn chú trọng tới hoạt động thanh tra tại chỗ và cụ thể đối với các NHTM mà chưa xây dựng được báo cáo tổng thể mang tính cảnh báo trong hoạt động NHTM.

Trình độ cán bộ giám sát chưa chuyên nghiệp: Các cán bộ thanh tra, giám sát của NHNN chủ yếu được đào tạo các nghiệp vụ thanh tra tại chỗ. Do đó, kiến thức chuyên môn về hoạt động giám sát chưa được phổ biến và đào tạo chuyên nghiệp như: Tổng hợp phân tích dữ liệu tổng thể; dự đoán và cảnh báo tình hình…

3.3.2.3. Về kiểm soát việc tuân thủ nguyên tắc thị trường, minh bạch thông tin

a. Hạn chế

Đối với khung chính sách, quy định: NHNN chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ và hoàn thiện cho hoạt động thông tin báo cáo của các NHTM. Một số quy định như chế độ báo cáo tài chính; công khai minh bạch thông tin còn nằm rải rác tại nhiều quy định khác nhau mà chưa có một văn bản quy định thống nhất về hoạt động công khai thông tin này.

Ngoài ra, một số quy định về chế độ báo cáo tài chính, công khai minh bạch thông tin đang trong quá trình nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi hoặc soạn thảo…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Việc thực hiện chế độ báo cáo theo Thông tư 21 đã bắt đầu có hiệu lực từ năm 2011 nhưng kết quả thực hiện tại một số NHTM còn chưa cao do việc tổ chức thu thập thông tin còn nhiều vướng mắc; cách hiểu nội dung và phạm vi của các chỉ tiêu còn chưa thống nhất, mức độ tin học hóa trong công tác thống kê chưa cao, làm hạn chế số liệu thống kê.

Còn khá nhiều mảng số liệu chưa được phản ánh đầy đủ trên hệ thống, trong đó phải kể tới mảng số liệu theo dõi trên hệ thống ngoại bảng như giá trị tài sản đảm bảo; giá trị cam kết cấp tín dụng đến khách hàng… Điều này phần nào ảnh hưởng tới tốc độ xử lý cũng như chất lượng báo cáo thống kê.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 15

Chất lượng thông tin kế toán tài chính còn thấp. Số liệu chưa đảm bảo cả về chất lượng lẫn số lượng; chưa minh bạch, chưa đánh giá hợp lý giá trị của tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu của các NHTM. Chất lượng thông tin kế toán quản trị và thống kê chưa đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ quản trị theo thông lệ quốc tế như thông tin cho quản trị tài sản nợ; QTRRTT, RRHĐ.

Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) có quá nhiều khác biệt so với Hệ thống chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Hiện nay, các NHTM đang thực hiện các quy định của VAS trong việc lập báo cáo tài chính của mình.

Các NHTM chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu công khai, minh bạch thông tin. Hiện nay, các NHTM mới thực hiện khá tốt việc công khai, minh bạch số liệu tài chính chủ yếu thông qua các báo cáo tài chính hàng năm trên trang Web hoặc báo cáo năm. Tuy nhiên, việc công bố các số liệu này thường rất chậm, do đó không có ý nghĩa nhiều cho các nhà quản trị ngân hàng trong việc đối phó với rủi ro.

Ngoài ra, các NHTM cũng khó khăn trong việc khai thác thông tin từ NHTM khác cũng như số liệu chung của toàn ngành ngân hàng. Do đó, các NHTM luôn bị lúng túng vì không đủ thông tin để xác định vị thế của mình, cũng như không đủ điều kiện để thực hiện các mô hình kinh tế dự báo về mức độ rủi ro.

b. Nguyên nhân

Cơ chế kiểm tra, giám sát lại số liệu còn lỏng lẻo, ảnh hưởng tới chất lượng của báo cáo. Ngoài những báo cáo tài chính tương đối chính xác do được kiểm toán, thì NHTM còn phải thu thập và thống kê rất nhiều mảng số liệu khác. Quy trình thu thập này thường được ủy quyền xuống cho các đơn vị cơ sở trực thuộc và chi nhánh, sau đó trụ sở chính của các NHTM chỉ thực hiện tổng hợp lại.

Số lượng cán bộ được bố trí tại các đơn vị thuộc NHNN để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thông tin do các TCTD cung cấp còn thiếu. Bên cạnh đó, chất lượng cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống máy tính của bộ phận thống kê tại NHNN còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng các báo cáo thống kê.

Thực trạng yếu kém đối với hoạt động công khai, minh bạch thông tin do nhiều nguyên nhân khác nhau như: NHNN chưa thiết lập được hệ thống các quy định về việc công khai và minh bạch thông tin; trình độ ứng dụng CNTT của các NHTM còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ thống kê còn thiếu cả về số lượng và chất lượng; và thái độ, nhận thức của các NHTM còn chưa thực sự nghiêm túc trong việc chấp hành chất lượng của báo cáo thống kê.

Ngoài ra, một nguyên nhân khác làm hạn chế việc tuân thủ công bố thông tin theo nguyên tắc thị trường đối với các NHTM đó là việc minh bạch hóa thông tin trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tính cạnh tranh, bảo mật và kết quả kinh doanh của ngân hàng.

3.3.3. Đánh giá các hạn chế và nguyên nhân dựa trên dữ liệu sơ cấp

Các đánh giá này dựa trên tổng hợp 350 phiếu phỏng vấn (nội dung trong Phụ lục 1) các chuyên gia đang làm việc trong hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm:

1) Tại Cơ quan NHNN Trung ương gồm: (1) cán bộ làm việc tại Cơ quan Thanh tra, giám sát NHNN; (2) cán bộ Vụ Dự báo, thống kê; (3) Viện Chiến lược ngân hàng;

2) Một số cán bộ làm việc tại Cục Thanh tra, giám sát Chi nhánh NHNN thành phố Hà Nội;

3) Một số cán bộ làm việc tại Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia;

4) Một số cán bộ làm việc tại bộ phận QTRR và KSNB của 10 NHTM được chọn nghiên cứu;

5) Một số giảng viên, các nhà khoa học tại các trường đại học: Kinh tế Quốc dân, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính, Đại học Thương mại, Đại học Ngoại thương.

Trung bình tuổi từ 40-55 tuổi, kinh nghiệm từ 15-30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng.

Mẫu các đối tượng được chọn để gửi phiếu điều tra xin ý kiến như trình bày trên đây đã bao gồm cả cán bộ quản lý, các chuyên viên đang làm việc tại Cơ quan Thanh tra và một số Vụ chức năng có liên quan của NHNN, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, các cán bộ làm việc tại các NHTM..., đều là những người có kỹ

năng nghiệp vụ về KSRR và QTRR, am hiểu về Basel II cũng như việc áp dụng Basel II vào hoạt động KSRR của NHNN đối với hoạt động của các NHTM. Mặt khác, mẫu điều tra cũng là tập hợp các cán bộ, chuyên viên của các cơ quan quản lý, giám sát (NHNN, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia) thực hiện KSRR và của cả các NHTM là đối tượng chịu sự KSRR của NHNN nên có thể cho thấy những quan điểm toàn diện từ cả 2 giác độ nhìn nhận về hoạt động KSRR của NHNN. Ngoài ra, cũng rất quan trọng, mẫu điều tra bao gồm cả các giảng viên, nghiên cứu viên và các nhà khoa học đã cho thấy các ý kiến trả lời và thu thập được là những ý kiến từ những giác độ nhìn nhận và đánh giá khác nhau, đảm bảo tính khách quan và toàn diện của dữ liệu sơ cấp. Kết quả thống kê mô tả được thể hiện trong Phụ lục 2.

Thứ nhất, về những nguyên nhân khẳng định sự cần thiết/tính tất yếu của việc áp dụng Basel II về KSRR trong hoạt động của các NHTM:

* Sự cần thiết xuất phát từ thực trạng KSRR của NHNN Việt Nam:

- 60% người được phỏng vấn đồng ý rằng việc áp dụng Basel II ở Việt Nam là cần thiết vì hiện nay mức độ tuân thủ của NHNN đối với các nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng còn khá thấp.

- 80% người được hỏi đồng ý rằng hoạt động KSRR của NHNN Việt Nam đối với các hoạt động kinh doanh của các NHTM trong thời gian qua chưa thực sự được hiệu quả.

- 80% người được hỏi đồng ý rằng trước nguy cơ tụt hậu về giám sát ngân hàng của NHNN, đặt ra yêu cầu áp dụng Basel II vào giám sát rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.

- 80% người được hỏi cho rằng hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN (bộ máy giám sát tài chính ngân hàng chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả; mô hình tổ chức, cơ chế giám sát chồng chéo; quy chế giám sát chưa đồng bộ…).

Thực trạng KSRR của NHNN dẫn đến những hạn chế về KSRR trong nội bộ từng NHTM, các đánh giá liên quan đến “Sự cần thiết xuất phát từ phía hệ thống NHTM” được nhìn nhận gồm:

* Sự cần thiết về phía thực trạng của hệ thống NHTM Việt Nam

- 90% người được phỏng vấn đồng ý rằng hệ thống KSRR của nhiều NHTM Việt Nam vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế và chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế.

- 100% người được hỏi đồng ý rằng hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua còn hạn chế, đặc biệt là mức độ rủi ro cao gây ra tác động tiêu cực không nhỏ đến niềm tin của khách hàng, sự phục hồi và phát triển của

nền kinh tế và đây là một trong những lý do quan trọng nhất của việc triển khai áp dụng Basel II.

Những thách thức xuất phát từ bối cảnh kinh tế, xã hội cũng là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi trong KSRR của NHNN theo chuẩn mực quốc tế. Cụ thể:

* Các lý do khác

- 90% người được hỏi đồng ý rằng xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam dẫn đến tất yếu các NHTM phải triển khai áp dụng Basel II.

- 70% người được hỏi đồng ý rằng bài học kinh nghiệm từ khủng hoảng tài chính 2008/2009 đặt ra yêu cầu hệ thống ngân hàng các nước phải hoạt động an toàn và hiệu quả, do vậy ở nhiều nước đã áp dụng Basel II và một số nước đã triển khai áp dụng các yêu cầu của Basel III là điều tất yếu.

- 90% người được hỏi đồng ý rằng việc trì hoãn thực hiện Basel II sẽ càng đẩy Việt Nam tụt lại xa hơn các nước trên thế giới và trong khu vực, giảm tính cạnh tranh của các NHTM trên thị trường quốc tế và giảm mức độ tín nhiệm của hệ thống Ngân hàng và của Việt Nam.

- 80% người được hỏi đồng ý rằng áp dụng KSRR theo Basel II sẽ nâng cao trách nhiệm với xã hội cộng đồng.

- 60% người được hỏi đồng ý rằng áp dụng KSRR theo Basel II sẽ tăng cường sự minh bạch về hoạt động của hệ thống ngân hàng.

NHNN triển khai KSRR theo Basel II là cần thiết, song, kế hoạch này không thể thực hiện được “một sớm một chiều” do những khó khăn được các chuyên gia nhận định từ phía hệ thống NHTM gồm:

Thứ hai, về tác động của các khó khăn khi áp dụng chuẩn mực Basel II trong QTRR

60% người được hỏi khẳng định vấn đề nguồn nhân lực (bao gồm: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng phân tích đánh giá và quản trị, số lượng chuyên gia am hiểu lĩnh vực ngân hàng ít, chi phí đào tạo chuyên gia lớn, năng lực thẩm định tín dụng còn yếu…) của NHTM có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

50% người được hỏi khẳng định năng lực nội tại của các NHTM (trình độ quản lý chưa cao, năng lực tài chính – vốn chủ sở hữu hạn chế, phân tích đánh giá rủi ro khách hàng còn bất cập, không có sự kiểm tra, giám sát rủi ro…) có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

70% người được hỏi cho rằng hệ thống công nghệ thông tin (chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu, các thông tin công bố chưa được kiểm toán, thông tin

đưa ra được chọn lọc theo hướng có lợi cho các nhà điều hành, tình trạng công bố thông tin thiếu chuyên nghiệp) của NHTM có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

20% người được hỏi cho rằng việc thiếu tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

75% khẳng định rằng việc chưa có văn bản hướng dẫn về việc triển khai Basel II hoặc nếu có thì chưa đầy đủ có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

50% người được hỏi cho rằng khó khăn trong các vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo của Việt Nam có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

Chỉ 10% người được hỏi cho rằng sự phức tạp của Basel II so với điều kiện của Việt Nam có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

65% người được hỏi cho rằng chi phí thực hiện ứng dụng Basel II quá lớn có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN.

Chỉ 30% người được hỏi cho rằng yêu cầu của Basel II về vốn khá cao sẽ tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN, trong đó 50% người được hỏi không cho rằng đây là tác động.

30% người được hỏi cho rằng việc chưa có hệ thống xếp hạng các NHTM một cách chính thức có tác động lớn đến KSRR theo Basel II của NHNN trong đó 50% cho rằng không tác động.

Mặc dù còn nhiều hạn chế xuất phát từ phía NHNN và hệ thống NHTM, tuy nhiên, các chuyên gia cũng khẳng định những ích lợi quan trọng không thể phủ nhận khi NHNN tuân thủ các chuẩn mực của Basel II trong KSRR đối với hệ thống NHTM, đó là:

90% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần xây dựng thành công hệ thống XHTDNB.

80% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR).

50% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần xây dựng mô hình tổ chức mới.

70% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần cải tiến phương pháp tính xác suất vỡ nợ (PD) (hiện chỉ mới căn cứ theo thông tin của khách hàng hiện hành chứ chưa đi sâu vào phân tích tình hình hoạt động trong quá khứ như theo yêu cầu của Basel II là 5 năm).

50% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần cải tiến trong việc tính toán các khoản lỗ dự kiến (EL) và các tổn thất không thể lường trước được (UL) trong yêu cầu của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (IRB) mà Basel II quy định.

80% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần tiếp tục nâng cao chất lượng KSRR (thẩm định chặt chẽ, kỹ càng, đúng quy định, giám sát việc sử dụng vốn vay, theo dõi diễn biến ngành, yêu cầu hồ sơ pháp lý chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra nợ vay, nhắc nhở khách hàng trả nợ đúng hạn, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, hạn chế giải ngân cho khách hàng đã có nợ quá hạn với ngân hàng; tăng cường nhân viên kiểm tra, KSRR tín dụng.

30% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần đầu tư, nâng cấp xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại.

40% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chỉ có 10% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần đa dạng hóa phương thức cho vay.

20% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần đa dạng hóa khách hàng.

60% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư.

55% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần tăng cường sức mạnh tài chính (tăng doanh thu, tận thu và xử lý nợ quá hạn đi kèm với giảm thiểu chi phí hoạt động…).

50% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại trung tâm thông tin tín dụng CIC.

70% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ thúc đẩy việc ban hành các văn bản hướng dẫn về việc xây dựng quy trình, hệ thống xếp hạng tín dụng.

80% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ định kỳ hướng dẫn các NHTM trong nước bổ sung kịp thời các tiêu chí xếp hạng theo chuẩn Basel II.

60% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ cho phép thành lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác

nhau nhưng cũng cần giám sát chặt chẽ các tổ chức này để tránh sự thông đồng giữa tổ chức xếp hạng và tổ chức được xếp hạng.

80% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thanh tra giám sát, KSRR trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.

75% người được hỏi đồng ý rằng triển khai kiểm soát rủi ro theo Basel II sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật (áp dụng các tiêu chuẩn của kế toán quốc tế trong việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, hạch toán các thu nhập và chi phí…).

60% người được hỏi đồng ý rằng triển khai KSRR theo Basel II sẽ yêu cầu các NHTM công khai, minh bạch thông tin.

3.4. Phân tích mô phỏng kết quả Stress Test và một số hàm ý chính sách cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với kiểm soát rủi ro các ngân hàng thương mại

Các kịch bản giả định sẽ được đưa ra chủ yếu dựa trên yếu tố “chuyên gia” kết hợp với các thông lệ quốc tế, dữ liệu lịch sử trong những năm gần đây thay vì sử dụng mô hình ước lượng từ các dữ liệu lịch sử trong thời gian ít nhất từ 1-2 chu kỳ kinh tế. Cụ thể mô hình được áp dụng như sau:

Về mục tiêu: Kiểm định sức chịu đựng, là một trong những công cụ được sử dụng để QTRR tín dụng. Trong những năm gần đây, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nội dung kiểm định sức chịu đựng càng được nhấn mạnh thường xuyên hơn trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học và các hội thảo về quản lý rủi ro. Tại Việt Nam, việc áp dụng Stress Testing để QTRR tín dụng vẫn còn có hạn chế. Nghiên cứu này được thực hiện để kiểm tra sức chịu đựng đối với rủi ro tín dụng của 10 NHTM tại Việt Nam thực hiện thí điểm Basel II theo các giả thiết kịch bản được xây dựng.

Trong những năm gần đây, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nội dung kiểm định sức chịu đựng càng được nhấn mạnh thường xuyên hơn trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học và các hội thảo về quản lý rủi ro. Hiện nay, phần lớn các NHTW và các cơ quan giám sát tài chính đều sử dụng công cụ ST để chẩn đoán và dự báo sức khỏe của hệ thống ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng trung ương, cơ quan giám sát tài chính sẽ ban hành các quy định về ST và yêu cầu các ngân hàng thực hiện, đồng thời báo cáo kết quả để chủ động đi

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí