Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Chất Vấn Của Quốc Hội Việt Nam


phòng nghị viện và chính phủ sẽ thảo luận để đi đến một thoả thuận. Thời điểm này thường được xác định làm sao nghị viện vẫn có thời gian chất vấn, còn các thành viên của chính phủ cũng có đủ thời gian chuẩn bị câu hỏi.

Để tránh trường hợp thủ tướng vá các thành viên của chính phủ không muốn trả lời chất vấn, ngoài việc uy tín chính trị của thủ tướng hoặc các thành viên của chính phủ sẽ bị giảm sút, một số nước còn quy định, nếu chính phủ không trả lời chất vấn trong một thời gian nhất định thì với yêu cầu của một lượng nghị sĩ nhất định, nghị viện đơn phương xác định thời gian chất vấn và thông báo cho chính phủ biết.

2.1.4.4. Về thời gian chất vấn

Ở một số nước, do Quốc hội họp thường xuyên nên hàng tuần, quốc hội thường dành một ngày hoặc một số ngày cố định với thời lượng 1 -2 giờ/ngày cho việc trả lời chất vấn. Điều 48 Hiến pháp 1958 nước Pháp quy định Quốc hội phải dành ít nhất một buổi làm việc trên một tuần để ưu tiên cho những câu hỏi của các thành viên Nghị viện và việc trả lời của Chính phủ.

Theo truyền thống của nhiều nghị viện, tại cuộc chất vấn, cá nhân nghị sĩ có câu hỏi chất vấn được phép trình bày chất vấn của mình và thủ tướng hoặc các thành viên chính phủ bị chất vấn trả lời câu hỏi chất vấn trong một khoảng thời gian nhất định (nhiều nhất là 15 phút). Sau đó, các nghị sĩ có quyền đặt câu hỏi phụ đối với vấn đề chất vấn. Câu hỏi phụ này được nghị sĩgửi lên chủ toạ của phiên chất vấn và người bị chất vấn phải trả lời ngay câu hỏi. Thông thường, nội quy nghị viện các nước giới hạn cho thời gian trả lời của mỗi câu hỏi phụ là 10 phút. Trong khi đó, nội quy kỳ họp của một số nước ấn định thời gian phát biểu không qua 5 phút và cho phép kéo dài thêm 2 đến 5 phút. Ngoài ra, còn quy định không hạn chế thời gian phát biểu cho một số nhân vật có địa vị hoặc vai trò đặc biệt trong bộ máy nhà nước như chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ… Ở Thụy Điển, trong các buổi chất chủ, các đại biểu có 1 giờ đồng hồ để đặt câu hỏi bằng lời đối với các bộ


trưởng tham gia. Thông thường, trong 1 giờ đồng hồ này có 5 bộ trường được các đại biểu Quốc hội chất vấn và cứ khoảng 3 tuần 1 lần Thủ tướng phải đăng đàn để trả lời chất vấn.

2.1.4.5. Về vấn đề hậu chất vấn

Ở các nước thuộc chính thể đại nghị hoặc hỗn hợp, hình thức chất vấn có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản đối hoạt động của chính phủ. Thậm chí có thể có việc đưa ra Nghị quyết bất tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của chính phủ. "Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do đưa ra nghị quyết, qua đó các viện phản ánh quan điểm của mình (phần 2, điều 111, hiến pháp Tây Ban Nha). Ở một số nước, việc chất vấn có thể dẫn đến việc quốc hội biểu quyết thông qua kiến nghị đưa ra thảo luận tại quốc hội về trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và cao hơn nữa, một số nước quy định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất định thì vị quan chức này phải điều trần trước quốc hội và có thể bị cách chức, thậm chí quốc hội có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của chính phủ. Ví dụ ở Pháp có quy định nếu một kiến nghị bất tín nhiệm Chính phủ thu nhận được chữ ký của ít nhất 10 nghị sĩ thì vấn đề đó sẽ được đưa ra thảo luận. Một số nước khác quy định cần có khoảng 20 hoặc 50 chữ ký.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Ở Quốc hội một số nước, các cuộc chất vấn dù ở dạng nào thì kết thúc nó, nghị viện cũng phải đưa ra ý kiến của mình. Nếu nghị viện không đưa ra ý kiến thì thủ tục chất vấn không đạt được mục đích vốn có của nó. Truyền thống nghị viện nhiều nước ghi nhận có 3 hình thức biểu quyết để xác định ý kiến của nghị viện

Thứ nhất, nghị viện biểu quyết thoả mãn về sự trả lời của thủ tướng hoặc các thành viên của chính phủ. Theo cách thức này, vấn đề tín nhiệm đối với Thủ tướng hoặc các thành viên của chính phủ không được đặt ra.

Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - 8

Thứ hai, nghị viện biểu quyết không thoả mãn. Với kết quả này, nghị viện có thể đặt vấn đề bất tín nhiệm đối với chính phủ theo chế độ trách


nhiệm tập thể hoặc đưa ra các khuyến nghị từ chức đối với các thành viên của chính phủ. Tuy nhiên, ở một số nước theo thể chế cộng hoà hỗn hợp như Pháp thì cho dù nghị viện biểu quyết không thoả mãn thì Chính phủ cũng không bị buộc phải giải tán nhưng uy tín của họ sẽ bị giám sút nghiêm trọng và cũng thường dẫn tới từ chức.

Thứ ba, nghị viện biểu quyết một cách trung dung, không bao hàm ý nghĩa tán thành hay không tán thành với câu trả lời. Trong trường hợp này, nghị viện không thảo luận gì thêm và tiếp tục nghị trình.

2.1.4.6. Một số bài học kinh nghiệm rút ra nhằm hoàn thiện hoạt động chất vấn của Quốc hội Việt Nam

Thứ nhất, nên quy định rõ trường hợp nào thì chất vấn bằng miệng, trường hợp nào thì chất vấn bằng văn bản. Ở Việt Nam, chưa có sự phân định rõ ràng những chất vấn trả lời bằng miệng và bằng văn bản. Vì vậy, dẫn tới trường hợp có những chất vấn liên quan đến những vấn đề vụn vặt, có khi chỉ liên quan đến một vụ việc, một cơ quan, không ở tầm vĩ mô vẫn được đưa ra trong kỳ họp của Quốc hội làm mất thời gian của Quốc hội, trong khi thời gian dành cho chất vấn đã rất hạn hẹp. Do đó, Quốc hội Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Quốc hội Đức, những chất vấn trả lời bằng miệng tại kỳ họp của Quốc hội phải là những vấn đề ở tầm vĩ mô, có tính quan trọng đối với quốc gia, là những vấn đề nóng bỏng, bức xúc, cần phải giải quyết ngay. Những vấn đề có tính vụn vặt, mức độ vi mô nên dành cho những chất vấn bằng văn bản. Ở Việt Nam, những chất vấn bằng miệng tại kỳ họp được truyền hình trực tiếp nhưng chất vấn bằng văn bản chưa được công khai, vì vậy cần thiết cũng phải đăng trên công báo để cho mọi người dân có thể biết. Chất vấn của đại biểu Quốc hội làm cho Quốc hội trở nên thực quyền hơn, thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan cao nhất đại diện cho nhân dân cả nước.

Thứ hai, nên tăng thời gian dành cho chất vấn và chất vấn làm nhiều buổi.


Trong mỗi kỳ họp của Quốc hội, Quốc hội Việt Nam dành 2-3 ngày cuối cùng để thực hiện hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại Hội trường. Điều này gây áp lực rất lớn cho người chất vấn và trả lời chất vấn. Trong khi đó, ở một số nước, hàng tuần, Quốc hội có 1 đến 2 tiếng đồng hồ để thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn. Trong điều kiện Quốc hội Việt Nam hoạt động không thường xuyên như một số nước, thì trước mắt, trong các ngày trong thời gian kỳ họp của Quốc hội nên dành 1 đến 2 tiếng đồng hồ tuỳ ngày cho hoạt động chất vấn, nhằm thu hút đại biểu đến dự, tránh tình trạng những ngày khác đại biểu Quốc hội đến họp thì ít nhưng ngày chất vấn thì đông, đồng thời vừa làm giảm áp lực cho hoạt động chất vấn mà vẫn tăng thời gian chất vấn nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của cử tri và tăng cường hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội. Quốc hội Việt Nam cũng nên học tập Quốc hội các nước quy định rõ người trả lời chất vấn có thể thêm 2 đến 5 phút để trả lời, tránh tình trạng có người thì được gia hạn thêm thời gian trả lời, người thì không như hiện nay. Đồng thời với những nhân vật quan trọng và với những vấn đề quan trọng, có thể không giới hạn thời gian trả lời chất vấn.

Thứ ba, nên quy định một cách chặt chẽ hơn về một số thủ tục chất vấn như thủ tục xác định câu hỏi chất vấn, thủ tục xác định thời gian trả lời chất vấn.

Theo quy định về việc xác định vấn đề chất vấn của Quốc hội Việt Nam, thủ tục như sau đại biểu Quốc hội gửi các chất vấn của mình đến đoàn thư ký kỳ họp. Đoàn thư ký kỳ họp tập hợp các chất vấn của đại biểu Quốc hội để gửi lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ dự kiến các câu chất vấn được thực hiện trong kỳ họp và người trả lời các câu hỏi đó, đồng thời gửi các câu hỏi này cho người trả lời chuẩn bị. Quy định này không xác định rõ tiêu chí để Quốc hội đưa chất vấn của đại biểu Quốc hội này ra mà không đưa chất vấn của đại biểu Quốc hội khác ra. Điều đó có thể dẫn đến sự ưu ái thành viên này của Chính phủ mà không ưu ái thành viên


khác trong việc lựa chọn vấn đề chất vấn. Chính vì vậy, cần quy định cụ thể tiêu chí lựa chọn chất vấn được đưa ra tại kỳ họp và phải có thủ tục chất vấn phải được biểu quyết của tất cả đại biểu Quốc hội mới được đưa ra tại kỳ họp.

Thứ tư, nên chú ý đến vấn đề hậu chất vấn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Quốc hội chỉ ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn khi xét thấy cần thiết. Nghĩa là hoạt động chất vấn không nhất thiết phải kết thúc bằng việc ra nghị quyết. Điều này thể hiện tính tuỳ nghi, trong khi đó không có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục như thế nào là cần thiết phải có nghị quyết, ví dụ có bao nhiêu đại biểu Quốc hội đồng tình. Do không rõ ràng trong các quy định pháp luật về hậu quả pháp lý của hoạt động chất vấn, dẫn đến thực trạng là Quốc hội ít khi thể hiện thái độ của mình đối với kết quả trả lời chất vấn. Mục đích chính của chất vấn là quy kết, làm rõ trách nhiệm chính trị của người trả lời, từ đó buộc họ phải nâng cao trách nhiệm của mình, tạo áp lực để có những điều chỉnh phù hợp. Nếu hoạt động chất vấn mà không thể hiện rõ thái độ của Quốc hội, thậm chí có những chế tài xử lý phù hợp thì không còn ý nghĩa là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu của Quốc hội. Đó là lý do tại sao hoạt động chất vấn ở Việt Nam thời gian qua diễn ra khá sôi nổi nhưng hiệu quả ngoài hội trường chưa lớn. Chính vì vậy, Quốc hội Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Quốc hội một số nước trong hoạt động chất vấn, sau khi chất vấn một "tổng tư lệnh" ngành nào đó, dù đồng tình hay không đồng tình, Quốc hội nhất thiết đều phải có nghị quyết thể hiện rõ thái độ của mình. Nếu đại đa số đại biểu Quốc hội không đồng tình thì có thể đặt vấn đề tín nhiệm của Quốc hội đối với người trả lời chất vấn. Chỉ có như vậy thì mới tránh được tình trạng người trả lời chất vấn nhận trách nhiệm, hứa giải quyết nhưng không có chuyển biến gì trong thực tiễn như hiện nay.

Hoạt động chất vấn của Quốc hội Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, đã tăng cường thảo luận, chất lượng câu hỏi chất vấn được nâng lên, người trả lời chất vấn đã hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, Quốc hội đã


chú ý hơn đến vấn đề hậu chất vấn, đã ra được nghị quyết về trả lời chất vấn và thực hiện giám sát lời hứa...Tuy nhiên, chất vấn vẫn chưa thực sự tạo ra áp lực đủ mạnh để tạo ra những chuyển biến rõ nét trong thực tiễn, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động chất vấn chưa được như mong muốn. Chính vì vậy, việc tham khảo và vận dụng một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm từ hoạt động chất vấn của Quốc hội một số nước trên thế giới là rất cần thiết.

2.2. HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM LÀ MỘT HÌNH THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.2.1. Đại biểu Quốc hội và hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội

2.2.1.1. Đại biểu Quốc hội

Thuật ngữ "đại biểu Quốc hội" trong lịch sử lập pháp nước ta còn được biết đến với tên gọi là "nghị viên" trong Hiến pháp 1946. Tuy nhiên, tất cả các nhiệm kỳ Quốc hội ở nước ta sau đó đều thống nhất sử dụng thuật ngữ "đại biểu Quốc hội" để chỉ các thành viên của cơ quan dân cử do cử tri cả nước bầu ra - Quốc hội.

Theo quy định của các văn bản Hiến pháp, đại biểu Quốc hội nước ta có địa vị pháp lý rất quan trọng. Ví trí pháp lý của đại biểu Quốc hội được Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội khẳng định "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước" (khoản 1, điều 79 Hiến pháp 2013) và "là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội" (Điều 43 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001). Địa vị đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:

- Đại biểu Quốc hội là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.

- Đại biểu Quốc hội do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông,


bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Qua bầu cử, nhân dân uỷ nhiệm quyền lực của mình, để đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Dù được bầu ra ở một địa hạt hành chính theo đơn vị bầu cử, nhưng trong hoạt động của mình, đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân (uỷ quyền tự do).

- Đại biểu Quốc hội có những thẩm quyền đặc biệt mà các cá nhân khác trong bộ máy nhà nước không có được. Đó là các quyền gắn với quyền lực của Quốc hội và các quyền miễn trừ do pháp luật quy định.

- Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội có mối quan hệ lôgíc và biện chứng chặt chẽ với quyền lực nhà nước, quyền lực của Quốc hội. Tính đại diện cho quyền lực của nhân dân là tiên đề đảm bảo để đại biểu Quốc hội trở thành thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có thể là thành viên của cơ quan đại biểu cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân cả nước, đại biểu Quốc hội mới có vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước. Chỉ có thể là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại biểu Quốc hội mới có khả năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân cả nước làm ra Hiến pháp, các luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

Do có vị trí đặc biệt đó, đại biểu Quốc hội có vai trò quan trọng trong xã hội. Đại biểu là tế bào sống, là yếu tố cấu thành của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và có ảnh hưởng to lớn đến quá trình thực hiện các chức năng của Quốc hội.

* Các quy định pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội

Trong hệ thống pháp luật hiện hành, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội. Đó là: Hiến pháp năm 2013, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động


giám sát của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của UBTVQH, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội…

Theo đó, đại biểu Quốc hội có những nhiệm vụ sau đây:

Tiếp công dân là nhiệm vụ thường xuyên của đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội tiếp công dân để nghe công dân góp ý kiến xây dựng Nhà nước đồng thời giúp nhân dân giải quyết những thắc mắc, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Quốc hội về kết quả giải quyết kiến nghị, khiếu nại tố cáo đó trong thời hạn theo quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo (Điều 28 Luật Tổ chức Quốc hội 2014).

Đại biểu Quốc hội được cử tri tín nhiệm bầu ra, phải chịu trách nhiệm trước cử tri đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Theo quy định tại khoản 2 điều 79 Hiến pháp 2013 và điều 27 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 thì đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri, thu thấp và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan, phải báo cáo trước cử tri mỗi năm ít nhất một lần về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp. Pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt cộng đồng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/12/2023