Sự Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Con Người Thông Qua Cơ Chế Bồi Thường Nhà Nước Cho Người Bị Oan Trong Hoạt Động Tố Tụng


Về nội dung BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự của các quốc gia đều thừa nhận bồi thường đối với cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần và bồi thường đối với các loại thiệt hại khác do người bị oan yêu cầu bồi thường trong trường hợp người có đủ cơ sở và căn cứ chứng minh sự tồn tại của thiệt hại đó. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia quy định về thiệt hại được bồi thường là khác nhau, tùy vào quan điểm pháp luật và sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất

Các loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, loại thiệt hại này bao gồm các trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất; trường hợp tài sản bị hư hỏng; trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản; các khoản tiền đã nộp vào ngân sách Nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền; Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết, loại thiệt hại này có thể được xem xét bồi thường đối với các khoản tiền chi phí thực tế trước khi người thiệt hại bị chết mà người thân của họ đã phải chi trả như chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết như: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế; chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác trước khi người bị thiệt hại chết như chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.


Thiệt hại về vật chất do tổn hại về sức khỏe, các khoản được chi trả đối với loại thiệt hại này có thể bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Về đối tượng được bồi thường, đối tượng được bồi thường đối với thiệt hại vật chất bao gồm chính người bị thiệt hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Như trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người thuộc hàng thừa kế, những người được hưởng cấp dưỡng từ người bị thiệt hại hay những người chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. Hoặc trong trường hợp người bị thiệt hại phải chịu tổn thất về sức khỏe, ảnh hưởng tới sức lao động thì những người chăm sóc sức khỏe hay những người cấp dưỡng và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể được bồi thường theo quy định của pháp luật.

Về cách thức xác định thiệt hại, việc xác định đối với thiệt hại vật chất thường được xác định trên cơ sở những xác minh thiệt hại thực tế căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản tại thời điểm giải quyết bồi thường, chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra. Đối với thiệt hại vật chất do thu nhập bị giảm sút thì việc xác định thiệt hại bồi thường được căn cứ trên thu nhập thực tế bị mất hay mức thu nhập trung bình của người bị thiệt hại hoặc những người có cùng ngành nghề tương tự.


1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Về loại thiệt hại được bồi thường, theo quy định pháp luật và quan điểm hiện nay tại hầu khắp các quốc gia, về cơ bản, các loại thiệt hại phi vật chất được xác định bao gồm thiệt hại do tổn thất về tinh thần, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại. Các loại thiệt hại này có thể phát sinh từ những thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết, trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm hay thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam.

Loại thiệt hại tổn thất về tinh thần phát sinh từ tài sản bị xâm phạm hay các chi phí cơ hội bị mất có thể được bồi thường tuy nhiên do việc xác minh đối với những loại thiệt hại này thường là phức tạp khó định lượng nên việc được bồi thường nằm ở mức độ giới hạn trong pháp luật các quốc gia.

Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự - 4

Về đối tượng được bồi thường, việc bồi thường đối với các thiệt hại phi vật chất có một đặc điểm khác với việc bồi thường đối với thiệt hại vật chất, cụ thể, việc xem xét bồi thường đối với các thiệt hại vật chất chỉ được xem xét đối với người bị thiệt hại trực tiếp. Còn thiệt hại phi vật chất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm là thiệt hại có thể được xem xét đối với bản thân những người thân thích với người bị thiệt hại hoặc những người có liên quan tới sự kiện xảy ra.

Về cách thức xác minh thiệt hại, việc xác định thiệt hại phi vật chất trên thực tế là tương đối khó khăn và chủ yếu dựa vào cảm tính của người xác minh thiệt hại và trong quá trình thương lượng giữa người bị thiệt hại với Nhà nước. Trong nhiều trường hợp Nhà nước ấn định những khoản tiền mang tính cố định để bồi thường ngay lập tức sau khi có thiệt hại phát sinh mà chưa cần phải xác minh thiệt hại nhằm bảo đảm tính kịp thời trong việc giải quyết bồi thường.


1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác

Bên cạnh hai loại thiệt hại cơ bản nêu trên, có những loại thiệt hại khác người bị oan phải gánh chịu như họ bị mất chức vụ, quyền hạn, vợ chồng ly tán, mất quyền đi học tùy vào mức độ và khả năng chứng minh sự phát sinh thực tế và tính hợp lý của thiệt hại mà cũng có thể được bồi thường, những loại thiệt hại này không nằm cụ thể tại một trong hai loại thiệt hại vật chất hay thiệt hại phi vật chất. Các loại thiệt hại này rất đa dạng, có thể là thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần hoặc mang tính hỗn hợp giữa vật chất và tinh thần như chi phí cơ hội hay thiệt hại hình thành trong tương lai (ví dụ trường hợp một sinh viên đại học bị kết án tù oan sai trong thời kỳ đang học đại học, trường hợp vụ việc của ông Nguyễn Khắc Công bị tạm giam, truy tố, xét xử trong thời gian đang học đại học).

1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện nên còn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với những quy định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà nước dần từng bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS. Đó là:

Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho


phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946, vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Như vậy, các quy định pháp luật TTHS đầu tiên của Nhà nước ta đã chú trọng bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS – một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét xử vụ án hình sự.

Tiếp đó Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác ban hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, hạn chế những oan, sai trong TTHS.

Để thống nhất về hoạt động BTTH trong TTHS, ngày 23/3/1972, TANDTC đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Văn bản này quy định công chức, viên chức hoặc người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi hành công vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến công tác được giao mà gây thiệt hại cho người khác thì cơ quan, xí nghiệp phải BTTH theo chế độ trách nhiệm dân sự. Sau đó cơ quan, xí nghiệp sẽ đòi họ phải hoàn trả tiền bồi thường đó theo quan hệ lao động. Đây là những quy định chung về BTTH ngoài hợp đồng trong đó có việc BTTH cho người bị oan trong TTHS. Tuy không trực tiếp quy định việc bồi thường trong TTHS, nhưng Thông tư 173/UBTP là văn bản pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc BTTH do làm oan trong thời kỳ


này. Cùng với việc BTTH, người THTT có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan người vô tội cũng bị xử lý tuỳ theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu truy cứu TNHS. Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán TANDTC, nhưng Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho việc BTTH, trong đó có BTTH cho người bị oan trong TTHS.

Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định và ghi nhận quyền con người trong tố tụng hình sự một cách rò ràng hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn. Quy định: “Không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật” (Điều 69). Ngoài ra, Hiến pháp năm 1980 đã kế thừa và tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo nhưng dưới hình thức mới chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn thông qua quy định cho phép thành lập tổ chức luật sư. Nhằm cụ thể Hiến pháp 1980, ngày 18/12/1987, Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh luật sư; ngày 21/2/1989 ban hành Quy chế đoàn luật sư quy định cụ thể hoạt động bào chữa của tổ chức luật sư nhằm tránh việc truy tố, xét xử oan sai, bảo vệ công dân một cách chặt chẽ và khoa học hơn.

Sau khi thay thế Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân, lần đầu tiên Bộ luật hình sự 1985 đã dành riêng chương X với 19 điều quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong chương X, Bộ luật này đã quy định các tội mà hành vi phạm tội của những người THTT có thể trực tiếp dẫn đến tình trạng oan, sai cho người vô tội như: Tội truy cứu TNHS người không có tội; Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án…

Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy định tại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước thời kỳ này nên những quy định pháp luật về oan, sai và BTTH cho người bị oan


trong TTHS còn thiếu quy định cụ thể, đặc thù, vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong thực tế còn hạn chế.

Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử TTHS Việt Nam đó là việc Nhà nước ban hành BLTTHS 1988, đánh dấu một bước tiến mới của quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời cùng với Bộ luật Hình sự 1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Tại BLTTHS 1988 đã nêu lên nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [33]. Đồng thời, quyền công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản và những quy định cụ thể trong BLTTHS 1988 đó là các nguyên tắc “bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các CQTHTT”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường cho người bị thiệt hại” [33]. Đây là lần đầu tiên vấn đề BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ thể trong một văn bản pháp luật. Theo đó, CQTHTT không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện các biện pháp như: khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại.

Việc bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần tiếp tục được ghi nhận và quy định trong Bộ luật Dân sự 1995. Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật Dân sự 1995 thì các thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm: chi phí hợp lý để khắc phục, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Việc BTTH được đặt ra ở ba phương diện là thiệt hại về tài sản, về sức khoẻ và về tính mạng, trong đó BLDS 1995 đã nêu rò những thiệt hại phải bồi thường trong từng nội dung. Việc bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm lại tuỳ thuộc vào sự xem xét của Toà án. Cùng với việc ban hành BLDS 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 “về việc giải quyết BTTH do công chức,


viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra”. Thông tư 54 hướng dẫn thi hành Nghị định này đã tiếp tục cụ thể hoá tinh thần của BLTTHS và BLDS nói trên. Theo Nghị định số 47/CP, việc BTTH được giải quyết theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, CQTHTT bồi thường cho mình thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 3). Về cơ bản cách thức giải quyết này là phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và cách thức giải quyết bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ BTTH không thể hiện rò và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có những quy định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị thiệt hại thực hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị oan sai, không ít vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải kéo dài sang trình tự tư pháp.

Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan tư pháp đối với các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu rò trách nhiệm của người THTT và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022