Những Vấn Đề Đặt Ra Cho Tác Giả Luận Án Cần Phải Tiếp Tục Nghiên Cứu, Giải Quyết


hình thức kiểm soát hiệu quả của Quốc hội đối với Chính phủ", Tạp chí Quản lý nhà nước, (2), năm 2016 cũng đã phân biệt chất vấn với hỏi buộc trả lời và điều trần.

Một số công trình đi vào phân tích những thành tựu và hạn chế trong hoạt động chất vấn của Quốc hội như Lê Thanh Vân, ''Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XII'', Tạp chí Tuyên giáo, (12) năm 2007; Trần Văn Tám với bài ''Đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn'', Tạp chí Tuyên giáo, (1), năm 2012; Đinh Xuân Thảo "Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5) năm 2010; Phạm Duy Nghĩa ''Hoạt động chất vấn từ góc nhìn của cử tri'', Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (15), năm 2010; Nguyễn Thị Kim Chung, Nguyễn Thị Hồng, ''Sửa đổi Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Quốc hội - nhìn từ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (15), năm 2012; Ngô Đức Mạnh "Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy trình, thủ tục chất vấn tại kỳ họp của Quốc hội, phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (3+ 4), năm 2015; Bùi Ngọc Thanh "Hoạt động chất vấn của Quốc hội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (18), năm 2015; Trần Quốc Việt, ''Chất vấn hình thức kiểm soát hiệu quả của Quốc hội đối với Chính phủ'', Tạp chí Quản lý nhà nước, (2), năm 2016; Trương Thị Hồng Hà, Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2016… Các công trình này khi đánh giá thực trạng có thể tiếp cận ở nhiều lát cắt khác nhau như có công trình đánh giá thực trạng theo nội dung người chất vấn, người trả lời chất vấn, việc điều hành hoạt động chất vấn, có công trình đánh giá thực trạng theo các nội dung như mục đích, nội dung, phương pháp, thủ tục, quy trình, hình thức hậu quả pháp lý… của chất vấn. Tuy nhiên, nhìn chung các công trình đều thống nhất ở một số thành tựu và hạn chế trong hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. Ví


dụ như người chất vấn đã thực hiện chất vấn đúng mục đích, không phải hỏi lấy thông tin, câu hỏi ngắn gọn, súc tích hơn, người trả lời chất vấn cũng trả lời ngắn gọn, thẳng thắn nhận trách nhiệm, việc điều hành chất vấn có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, Quốc hội cũng đã ra nghị quyết về chất vấn… Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế trong thực hiện hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội như hệ thống cơ sở pháp lý, quy trình, thủ tục cho hoạt động chất vấn còn nhiều bất cập, bất cập về năng lực, bản lĩnh của đại biểu Quốc hội trong thực hiện hoạt động chất vấn, chưa thực sự truy đến cùng trong chất vấn, tính tranh luận, phản biện trong chất vấn chưa thật cao, hậu quả pháp lý cho hoạt động chất vấn chưa cao, việc theo dõi lời hứa trong hoạt động chất vấn còn nhiều hạn chế, người trả lời chất vấn còn vòng vo, né tránh… Từ việc đánh giá thực trạng hoạt động chất vấn, các tác giả cũng khẳng định những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chất vấn đó là cơ sở pháp lý, là năng lực, bản lĩnh của đại biểu Quốc hội, là các phương tiện và cơ quan tham mưu phục vụ cho hoạt động chất vấn của đại biểu đặc biệt là cung cấp thông tin… Từ đó các tác giả đều nêu ra các giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn như hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy trình thủ tục, tiếp tục đổi mới hoạt động điều hành chất vấn, nâng cao năng lực cho đại biểu Quốc hội trong thực hiện hoạt động chất vấn, nâng cao ý thức trách nhiệm của người trả lời chất vấn…

Một số công trình đề cập kỹ năng thực hiện chất vấn của đại biểu Quốc hội, như là một yếu tố làm nên hiệu quả hoạt động chất vấn nói riêng, hoạt động giám sát nói chung. Tác giả Lê Thanh Vân trong bài viết "Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XII", Tạp chí Tuyên giáo, (12), năm 2007 đã phân tích các kỹ năng chất vấn của đại biểu Quốc hội bao gồm kỹ năng đặt câu hỏi và trình bày câu hỏi chất vấn, kỹ năng tranh luận; kỹ năng phân tích chính sách; kỹ năng tạo sức ép dư luận đối với vấn đề chất vấn; kỹ năng giám sát việc thực hiện các vấn đề đã được làm sáng


tỏ tại phiên chất vấn.. Tác giả Trần Quốc Việt trong bài viết "Chất vấn hình thức kiểm soát hiệu quả của Quốc hội đối với Chính phủ", Tạp chí Quản lý nhà nước, (2), năm 2016 cho rằng kỹ năng chất vấn của đại biểu thể hiện ở nội dung chất vấn, thời gian tuân thủ, thái độ, chất vấn, câu hỏi chất vấn…

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO TÁC GIẢ LUẬN ÁN CẦN PHẢI TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT

Trên cơ sở tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài, có thể thấy rằng các công trình đã đề cập, phân tích được những vấn đề sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

- Các công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước như khái niệm, mục đích, tính tất yếu, sự cần thiết, các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước…

- Các công trình đã phân tích chỉ rõ các hình thức giám sát của Quốc hội Việt Nam, đánh giá thực trạng thực hiện quyền giám sát của Quốc hội cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội.

Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - 4

- Một số công trình đã nhận thấy giám sát của Quốc hội chính là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong, trong hoạt động giám sát đó, đã chỉ ra chất vấn là hình thức giám sát nổi bật nhất, có hiệu quả nhất của Quốc hội Việt Nam hiện nay và bước đầu chỉ ra đây là hoạt động mang tính kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Các công trình đã bước đấu đánh giá thực trạng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội như là một trong các hình thức giám sát của Quốc hội và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.,.

- Các công trình nghiên cứu đi trước cũng đã đề cập đến kinh nghiệm chất vấn và hoạt động chất vấn của nghị sĩ các nước trên thế giới.

Mặc dù chưa nhiều, nhưng gần đây đã có một số công trình đã chú ý hơn đến hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp. Tuy nhiên, những tài liệu được tiếp cận, cho thấy hầu hết những công trình này đã tập trung nghiên cứu về quy định pháp luật liên quan đến hoạt động chất vấn,


thực trạng thực hiện hoạt động chất vấn cũng như giải pháp hoàn thiện, dưới góc độ pháp lý, mà chưa làm rõ chất vấn tại kỳ họp Quốc hội như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước.

Khảo cứu những công trình khoa học trên cho thấy, cho đến nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu sâu sắc và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chúng tôi xác định những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu bao gồm:

Thứ nhất, chất vấn với tư cách là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện như thế nào, so với các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước khác, chất vấn có những ưu điểm gì?

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội trong thời gian qua, đang đặt ra vấn đề gì?

Thứ ba, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động chất vấn.

Qua nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan, chúng tôi khẳng định đề tài mà chúng tôi lựa chọn không trùng lắp với bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác đã được công bố. Đề tài được triển khai thành công, sẽ có những đóng góp mới, đưa thêm một góc nhìn mới về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, đó là tiếp cận chất vấn như là một hình thức quan trọng trong, hiệu quả trong các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta. Từ đó đề tài góp phần hoàn thiện vào cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong nói riêng ở Việt Nam hiện nay.


Chương 2

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


2.1. KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - QUAN NIỆM, CƠ CHẾ, MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước: Những quan niệm và khái niệm

Quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm, cơ bản của đời sống chính trị- xã hội. Quyền lực nhà nước là yếu tố không thể thiếu để thiết lập trật tự, các quy tắc vận hành của một xã hội. Quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng nảy sinh do nhu cầu chung của cả cộng đồng xã hội. Quyền lực nhà nước là quyền lực của một nhóm chủ thể nhất định đối với toàn xã hội, với đặc thù sử dụng những phương tiện cưỡng chế trong trường hợp có sự không tuân thủ từ phía đối tượng bị áp đặt quyền lực.

Quyền lực ở khía cạnh khoa học xã hội, là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, các nhóm người khác với ý nghĩa là "quyền lực"; mặt khác, nó đại diện cho một vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác.

Quyền lực ở khía cạnh khoa học pháp lý với ý nghĩa là "thẩm quyền", "quyền lợi" của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những các thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội).

Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các "khả năng hành động, gây ảnh hưởng" cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm


người. Việc sử dụng thứ sức mạnh này để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo những ý nghĩa tích cực cũng như tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng.

Quyền lực nhà nước có những dấu hiệu nổi bật sau:

Tính hợp pháp của việc sử dụng sức mạnh trong khuôn khổ Nhà nước. Tính chất công của quyền lực nhà nước được áp đặt tới mọi công dân,

trên danh nghĩa xã hội, với sự trợ giúp của pháp luật.

Sự có mặt một trung tâm, đầu mối duy nhất đưa ra quyết định.

Sự đa dạng của các phương tiện được sử dụng để đảm bảo ảnh hưởng, tác động của chủ thể quyền lực đối với khách thể của quyền lực. Nhà nước không chỉ sử dụng sự cưỡng chế, mà còn cả chác phương tiện kinh tế, xã hội, văn hóa - thông tin để thực hiện quyền lực của mình.

Đặc trưng quan trọng nhất của quyền lực đó chính là sự tha hoá của quyền lực. Quyền lực có xu hướng tha hoá, chính sự tha hoá của quyền lực dẫn đến quyền lực dễ bị sử dụng vào những mục đích tư lợi của con người. Sự tha hoá của quyền lực lại có quan hệ với lòng tham và sự tư lợi của con người, bản tính tham của con người.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là rất quan trọng và cần thiết. Không quốc gia nào có thể thực thi quyền lực nhà nước một cách hiệu quả, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, ổn định và bền vững nếu như quyền lực nhà nước không được kiểm soát và thực hiện đúng đắn, bị tha hoá, bị thao túng bới những nhóm lũng đoạn chính trị. Tuy nhiên, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước được quan niệm và định nghĩa khác nhau.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng mục đích mong muốn và đạt hiệu quả cao.


Với mỗi quốc gia, việc kiểm soát và tổ chức thực hiện việc kiểm soát quyền lực với cơ chế khác nhau. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng hợp những phương thức (hình thức, quy trình, quy định, biện pháp, phương tiện...) và các thiết chế có chức năng liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể. Thông qua đó việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện, nhằm phát hiện, ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, đúng mục đích mong muốn và có hiệu quả.

Thông thường, mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia dân chủ, đều có những quy định khá chặt chẽ và đầy đủ về kiểm soát quyền lực nhà nước, có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả. Ở các nước thiếu vắng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thường là do các thể chế về kiểm soát quyền lực nhà nước chưa đầy đủ , không tồn tại các điều kiện đảm bảo cho các quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện trong thực tế (nhiều chủ thể không có điều kiện thực hiện hoặc không quan tâm đến việc kiểm soát quyền lực), các chủ thể bị kiểm soát (đối tượng kiểm soát) không muốn bị kiểm soát, tìm cách trốn tránh việc kiểm soát...

2.1.2. Cơ sở của việc kiểm soát quyền lực nhà nước

2.1.2.1. Quyền lực nhà nước là quyền lực được uỷ nhiệm

Quyền lực nhà nước không phải là thứ quyền lực từ trên trời rơi xuống mà do nhân dân uỷ nhiệm. Nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực nhà nước, là người uỷ quyền, còn nhà nước là người được uỷ quyền, là người thừa hành, thực hiện những gì mà nhân dân giao cho. Nói cách khác, nhân dân với tư cách là một tập thể đông người, lại không thể tự mình thực hiện quyền lực ấy mà phải uỷ quyền cho đại diện của mình (một số người) - bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, người được uỷ quyền lại luôn luôn có xu hướng lạm quyền, tự mở


rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ quyền lực nhân dân nhưng luôn có xu hướng trở nên quan liêu, xa lạ, thậm chí đứng trên nhân dân, áp bức nhân dân, làm tha hoá bản chất quyền lực vốn của nhân dân. Rút xô, nhà tư tưởng vĩ đại thời kỳ khai sáng đã cho rằng "Các thứ Chính phủ trên đời, một khi nắm được quyền lực công cộng đều tìm cách lạm dụng, thoán đoạt quyền lực tối cao của nhân dân. Do vậy ý chí riêng thường hay tác động ngược lại ý chí chung, cho nên Chính phủ cũng thường hay có hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng" [62, tr.163]. C.Mác cũng cho rằng, cho dù nhà nước xã hội chủ nghĩa chăng nữa cũng không thoát khỏi xu thế này. Khi Phê phán Cương lĩnh của Đảng công nhân Đức năm 1785 ông đã cảnh báo "dù có ghép từ nhân dân với nhà nước đến một nghìn lần thì người ta cũng không làm cho vấn đề nhích lên một chút nào" [1, tr.491]. Do đó, để chủ thể uỷ quyền giữ vai trò chi phối người được uỷ quyền, buộc người được uỷ quyền hành động theo những cách thức mà chủ thể mong muốn, tức là quyền lực nhà nước luôn thực sự thuộc về nhân dân, hành động vì lợi ích của nhân dân thì phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm xác định một cách chính xác. Để biết được nhà nước có thực hiện đúng điều mình đã uỷ nhiệm, đã thoả thuận hay không, hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền thì người dân phải kiểm soát quyền lực này.

Locke cho rằng nhân dân là khởi nguồn và chủ thể tối cao quyết định sự tồn vong của nhà nước nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng. Tuy nhiên nhân dân không chuyển giao toàn bộ quyền tự nhiên của mình cho chính quyền khi tham gia khế ước xã hội mà bằng lý trí và phù hợp với luật tự nhiên, trong cộng đồng vẫn lưu giữ và luôn tồn tại một quyền lực lực quan trọng - quyền chủ thể của mọi quyền lực chính trị. Cho nên nhân dân hoàn toàn có quyền giải thể chính quyền khi nó trở nên bất chính, nhân dân lấy lại quyền lực đã uỷ thác và thiết lập một chính quyền mới tiến bộ hơn. Locke viết

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí