Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - 2


- Phạm vi nghiên cứu của luận án: tính từ kỳ họp thứ 6 khoá XIII đến nay(gắn với Hiến pháp năm 2013).

4. Những đóng góp mới của luận án

Luận án có những đóng góp mới sau:

- Góp phần bổ sung lý luận kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện tổ chức bộ máy nhà nước mang tính đặc thù Việt Nam, chỉ ra sự khác biệt, những ưu thế của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của Quốc hội và của các nhánh quyền lực khác nói chung, mối quan hệ giữa phương thức kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của Quốc hội.

- Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp trên phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

5.1. Cơ sở lý luận

- Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, về hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

- Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước, về kiểm soát quyền lực nhà nước. Đặc biệt là tham khảo phương thức chất vấn của nghị viện một số nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản.


Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - 2

5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích hệ thống chính trị, phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra luận án còn sử dụng các phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định tính, định lượng.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu nghiên cứu, các số liệu liên quan đến đề tài, các nội dung chất vấn trong các kỳ họp của Quốc hội.

Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ các phần của luận án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và những nội dung còn thiếu trong nghiên cứu vấn đề của luận án, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua chất vấn, phân tích thực trạng...

Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong so sánh chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam với hình thức chất vấn của Quốc hội các nước khác, so sánh hoạt động chất vấn giữa các kỳ họp, giữa hoạt động trong và sau chất vấn.

Phương pháp phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia, các nhà lập pháp đã từng tham gia Quốc Hội qua các thời kỳ (Luận án đã phỏng vấn đồng chí Vũ Mão nguyên Chánh Văn phòng, nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc Hội).

Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để kết hợp nhận định mang tính định tính với số liệu mang tính định hướng được luận án sử dụng để hoàn thành nội dung nghiên cứu của chương 3.

6. Ý nghĩa của luận án

- Làm rõ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hình


thức kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động chất vấn...

- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động chất vấn.

- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng trong nghiên cứu chính trị, trong giảng dạy ở các cơ sở đào tạo.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...nội dung của luận án gồm có 4 chương với 9 tiết.


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề trọng yếu của bất kỳ nhà nước nào. Trên thế giới điều này đã được khẳng định rất sớm bới các nhà tư tưởng chính trị- pháp lý thời đại Khai sáng. Các nghiên cứu liên quan về sau chỉ làm rõ hơn về phương thức tổ chức nhà nước và các cơ chế vận hành hệ thống chính trị sao cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả hơn mà thôi. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó có những công trình tiêu biểu sau: Lê Thị Anh Đào, "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn đề cơ bản", Tạp chí khoa học chính trị, số 3 năm 2011. Công trình này tác giả đã bàn những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát quyền lực, quyền lực nhà nước, tính tất yếu phải kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền.

Lưu Văn Quảng Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đề tài cấp bộ năm 2008. Đề tài đã đặt ra vấn đề phải xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam như một đòi hỏi cấp bách từ việc hoàn thiện thể chế chính trị và bộ máy ở nước ta. Nội dung, các yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền lực đã được tập thể tác giả nghiên cứu đề tài đề cập khá đầy đủ.

Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Trần Kim Cúc, tác giả bàn về vai trò của pháp luật và yêu cầu phải có cơ chế pháp lý để kiểm soát quyền lực có hiệu quả.

Lâm Quốc Tuấn Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy


nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Vũ Anh Tuấn "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí sinh hoạt lý luận, (5), năm 2011.

Lê Minh Quân ''Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân'', Tạp chí Cộng sản, (10), năm 2013; tác giả đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Trần Ngọc Đường ''Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (16), năm 2011; Phạm Hữu Nghị "Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), năm 2011…

Các công trình nói trên đã cố gắng giải quyết những vấn đề có tính lý luận chung của kiểm soát quyền lực nhà nước, như: Tính phổ biến, sự cần thiết, mục đích, cơ chế thực hiện… Các công trình đã phân tích những quy định của pháp luật về sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền lực; thử xác định các khái niệm, mục đích, chủ thể, phạm vi của kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhiều tác giả đã khái quát có hai hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là kiểm soát từ bên trong (giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với nhau) và từ bên ngoài từ các đảng chính trị, các tổ chức công dân và của nhân dân.

Sự cần thiết phải kết hợp cả hai hình thức này trong một thể chế chính trị cũng được đặt ra, Trần Ngọc Đường, 2011, Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh đề cập đến. Phân biệt sự giám sát bên trong hệ thống quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền lực với giám sát bên ngoài đó là sự giám sát có tính chất quyền lực nhà nước và không có tính chất quyền lực nhà nước.

Nhiều tác giả đã đề cập đến hoạt động chất vấn, nhìn thấy sự liên hệ, sự cần thiết giữa việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động chất vấn, như là một hình thức giám sát đặc thù.


Để phân biệt giữa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, các tác giả Vũ Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014) đã phân tích các khái niệm thanh tra, kiểm, tra, giám sát, kiểm sát và đã đưa ra khái niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả còn tiếp tục đi sâu hơn, phân tích khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lập pháp, cơ chế kiểm soát quyền hành pháp và cơ chế kiểm soát quyền tư pháp và những yếu tố đảm bảo cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thực tế.

Liên quan đến cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Trần Ngọc Đường trong công trình: Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Vũ Anh Tuấn "Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí lý luận chính trị, (5), năm 2012, đã đi sâu phân tích sự mất cân đối trong nhận thức và tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. Đó là coi trọng tính thống nhất, tập trung mà coi nhẹ tính kiểm soát, chế ước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả đặc biết chú ý đến cơ chế kiểm soát từ bên ngoài (của Đảng, của các tổ chức chính trị-xã hội, của các tổ chức xã hội và của nhân dân) đối với quyền lực nhà nước và sự phối hợp với cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Các giải pháp mà Trần Ngọc Đường đề xuất khá toàn diện bao gồm đề nghị các phương án sửa đổi một số quy định trong Hiến pháp hiện hành cho đến những quy định pháp luật cụ thể. Về giám sát tối cao của Quốc hội, tuy cuốn sách của Trần Ngọc Đường không bàn đến vấn đề chất vấn nhưng cho rằng chức năng giám sát tối cao của Quốc hội nên tập trung vào kiểm soát hoạt động của hành pháp, không nên kiểm soát tư pháp và các văn bản luật để đảm bảo thực quyền.

Để làm rõ hơn vấn đề và các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, nhiều tác giả đã thực hiện nghiên cứu so sánh các nước trên thế giới, thậm chí


so sánh các tổ chức nhà nước của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo hướng này có: Nguyễn Quang Anh "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (286), tháng 3 năm 2015.

Sự khác biệt của kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước pháp quyền tư sản và Việt Nam là ở cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các cơ quan quyền lực, đề cao vai trò các đảng phái chính trị đối lập, thông qua các tổ chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng, bầu cử tự do và giới hạn nhiệm kỳ. Bàn về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của nước Nga, và các nước Đông Âu qua cả hai giai đoạn, trước trước và sau 1991, nghiên cứu vấn đề tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Thái Vĩnh Thắng (2011) cho rằng, sự thiếu vắng cơ chế kiểm soát quyền lực trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là một trong những nguyên nhân của tình trạng mất dân chủ, mà hệ luỵ của nó là dẫn đến sự suy yếu nhà nước và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ những kinh nghiệm các nước phương Tây, bài học các nước Đông Âu, các tác giả đã hàm ý rút ra những những giá trị cần tham khảo, vận dụng ở Việt Nam.

Sau khi phân tích tính so sánh việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, hầu hết các công trình trên đều thống nhất cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, thiếu sót, bất cập và nguyên nhân của tình trạng này. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp về tổ chức và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Đáng chú ý là cuốn Kiểm soát quyền lực nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2008 của Trịnh Thị Xuyến. Đây là cuốn sách được xuất bản từ luận án tiến sĩ (2007) lần đầu tiên ở Việt Nam, nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được


tiến hành một cách công khai, tương đối toàn diện và đầy đủ. Tác giả cuốn sách cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan. Tác giả đã làm rõ các khái niệm: kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung, mục đích, các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả đã khảo sát thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới, đặc biệt với hai mô hình hệ thống chính trị lựa chọn, là mô hình các nước có hệ thống hai đảng nổi trội và mô hình hệ thống một đảng nổi trội, từ đó rút ra những giá trị tham chiếu cho Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, với các chủ thể là nhân dân và Đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền. Các phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, theo Trịnh Thị Xuyến, là hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước, thay đổi cách thức kiểm soát của Đảng, xây dựng các cơ chế kiểm soát của nhân dân, xây dựng cơ chế kiểm soát trong bộ máy nhà nước, phát triển các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng độc lập, tự chủ, nâng cao trình độ văn hoá chính trị, dân chủ, pháp lý của nhân dân. Tác giả có bàn đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp đối với hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, đây chỉ là một nội dung nhỏ của cuốn sách nên chưa được đề cập nhiều đến kiểm soát quyền lực cơ quan thực thi quyền hành pháp, hay quyền tư pháp thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội.

Nhiều công trình cũng đã làm rõ khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước. Ví dụ như tác giả Nguyễn Thị Vân Giang trong bài "Kiểm soát quyền lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 đã đưa ra định nghĩa kiểm soát quyền lực nhà nước "Đó là hệ thống những thể chế, cơ chế, nguyên tắc, biện pháp… được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả". Các tác giả Phạm Thế Lực trong bài viết ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), năm 2011 và Nguyễn Vân Giang "Kiểm soát quyền

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí