+ Các điều kiện mà doanh nghiệp áp dụng gồm các điều kiện hạn chế về sản xuất phân phối, địa điểm bán lại, hạn chế về khách hàng mua, hình thức và số lượng hàng hóa. Những điều kiện này không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, mà nó phục vụ cho mục đích hạn chế cạnh tranh, bóc lột khách hàng. Mặt khác, đây là những điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa dịch vụ, tức là những điều kiện bắt buộc phải có, buộc các bên phải thỏa thuận chấp nhận thì mới có thể ký kết hợp đồng. Bằng việc ép khách hàng phải chấp nhận các điều kiện đó, doanh nghiệp đã gia tăng lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng so với các đối thủ cạnh tranh, gây tổn hại đến thị trường và ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng.
Thứ hai, buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Về khái niệm, khoản 2 điều 30 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đã đưa ra một khái niệm chung:
Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng [9, Điều 30, Khoản 2].
Tương tự như đối với nhóm hành vi áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau đã được nêu ở Phần 2.1.2.4, khi tiến hành các giao dịch, doanh nghiệp thống lĩnh cũng đưa ra các điều kiện buộc khách hàng phải chấp nhận. Điểm khác biệt ở đây là trong trường hợp này, doanh nghiệp thống lĩnh không ép khách hàng phải chấp nhận các điều kiện tiên quyết của hợp đồng mà là bắt khách hàng chấp nhận mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc từ người thứ ba được chỉ định hoặc phải thực
hiện thêm những nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Ngoài việc chấp nhận mua sản phẩm chính của hợp đồng, khách hàng còn phải chấp nhận mua những sản phẩm không liên quan hoặc thực hiện những nghĩa vụ không liên quan đến hợp đồng. Những sản phẩm phải mua và nghĩa vụ phải thực hiện này không phải là sản phẩm khuyến mãi tặng kèm bởi trong khuyến mãi, khách hàng hoàn toàn có thể lựa chọn mua hoặc không, còn trong trường hợp áp đặt của doanh nghiệp thống lĩnh thì nếu khách hàng không mua, không chấp nhận nghĩa vụ thì doanh nghiệp thống lĩnh sẽ không ký kết hợp đồng với họ. Mặt khác, các sản phẩm và nghĩa vụ đó không phải là điều kiện cần thiết để thực hiện hợp đồng chính. Việc có thực hiện nó hoặc không không có bất kỳ một cản trở hoặc ảnh hưởng nào đến việc các bên thực hiện hợp đồng chính.
Bằng việc buộc khách hàng phải chấp nhận mua sản phẩm hoặc thực hiện một số nghĩa vụ, doanh nghiệp thống lĩnh đã lợi dụng vị thế của mình để áp đặt những điều kiện có lợi cho bản thân mình, cho bên thứ ba (thường là bên có mối quan hệ hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp) mà gây thiệt hại cho khách hàng. Trong quá trình xác minh việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã thực hiện hành vi ép buộc này, cơ quan chức năng cần lưu ý đến việc chứng minh các nghĩa vụ đi kèm này không có bất kì ảnh hưởng nào đến việc thực hiện hợp đồng chính.
2.1.2.6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới
Các hành vi nhằm hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thường nhằm vào ba đối tượng chính là khách hàng, người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh. Hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới chính là hành vi nhằm vào đối tượng cuối cùng
có tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường, đó chính là các đối thủ cạnh tranh (bao gồm các đối thủ cạnh tranh đang có trên thị trường và các đối thủ cạnh tranh tiềm năng). Hành vi này có thể được hiểu là hành vi tạo ra những rào cản trên thị trường liên quan để các doanh nghiệp khác cũng sản xuất cùng loại sản phẩm không thể gia nhập được thị trường liên quan. Điều 31 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đã quy định cụ thể về hành vi này theo hướng liệt kê, cụ thể như sau: yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới, đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới, bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường [9]. Tuy nhiên, việc xác định hành vi bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường trên thực tế gặp nhiều khó khăn do có thể nhầm lẫn với hành vi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Mỗi mức giá được hạ lại có hiệu quả ngăn cản khác nhau đối với các đối thủ tiềm năng do còn phụ thuộc vào chi phí sản xuất, chi phí lưu thông, giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp mới này.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Pháp Luật Việt Nam Về Kiểm Soát Hành Vi Lạm Dụng Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường Trong Lĩnh Vực Kinh Doanh Xăng Dầu
- Các Hành Vi Lạm Dụng Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường Bị Cấm Theo Pháp Luật Cạnh Tranh
- Hạn Chế Sản Xuất, Phân Phối Hàng Hoá, Dịch Vụ, Giới Hạn Thị Trường, Cản Trở Sự Phát Triển Kỹ Thuật, Công Nghệ Gây Thiệt Hại Cho Khách Hàng
- Chế Tài Đối Với Hành Vi Lạm Dụng Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường Theo Nghị Định Số 71/2014/nđ-Cp Của Chính Phủ Quy Định Về Xử Lý Vi
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Về Kiểm Soát Hành Vi Lạm Dụng Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường Trong Lĩnh Vực Kinh Doanh Xăng Dầu Ở Việt
- Về Cơ Chế Thanh Tra, Kiểm Tra, Xử Lý Hành Vi Vi Phạm
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Đối với các quy định về hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới, pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có những quy định cụ thể về việc xác định các yếu tố cấu thành các hành vi để có thể đánh giá một cách chính xác nhất các hành vi vi phạm của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Chúng ta mới chỉ đưa ra những dấu hiệu, những khái niệm cơ bản nhất để cơ quan chức năng có thể dựa vào đó xác định hành vi vi phạm. Điều này đặt lên vai những người áp dụng luật một trách nhiệm rất lớn và khó khăn, trong khi nguồn nhân lực này ít được tiếp cận với những kinh nghiệm phong phú, được đào tạo trình độ, gây khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định của Luật vào thực tế.
2.1.3. Các quy định về thủ tục điều tra xử lí hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
2.1.3.1. Các nguyên tắc tố tụng
Trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng Cạnh tranh và những người tham gia tố tụng cạnh tranh phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đây là nguyên tắc cơ bản, thể hiện tính tối thượng của pháp luật. Mọi chủ thể tham gia quá trình tố tụng cạnh tranh phải tuân theo các quy định của pháp luật, phải dựa vào các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định của pháp luật Cạnh tranh để tiến hành xử lý vụ việc được chính xác, công bằng, khách quan.
Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân liên quan và bảo đảm bí mật kinh doanh của doanh nghiệp: Nguyên tắc này đảm bảo cho quyền lợi của các chủ thể kinh doanh có liên quan đến vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Đảm bảo quyền được luật sư bảo vệ: Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường bị điều tra về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có quyền thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thành viên Hội đồng Cạnh tranh xử lý độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: Nguyên tắc này đảm bảo cho việc xử lý vụ việc cạnh tranh được tiến hành một cách khách quan, chính xác, công bằng. Điều này đòi hỏi Hội đồng Cạnh tranh phải được trao đầy đủ quyền hạn và có các quy định về trách nhiệm của thành viên Hội đồng Cạnh tranh khi không thực hiện nhiệm vụ một cách công bằng khách quan. Hội đồng Cạnh tranh xử lý tập thể, đảm bảo sự khách quan, toàn diện khi xem xét vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Xử lý công khai: Trừ những trường hợp đặc biệt, phiên điều trần được tổ chức công khai. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự theo dõi tính hợp lý, phát hiện sai sót kịp thời của các cá nhân, tổ chức và gia tăng trách nhiệm của thành viên Hội đồng Cạnh tranh.
Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trong tố tụng cạnh tranh: Quyết định của Hội đồng Cạnh tranh là quyết định của cơ quan hành chính, nên các cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan có quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp. Nếu một trong các bên không chấp nhận quyết định giải quyết khiếu nại thì họ có thể khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
2.1.3.2. Quy trình thủ tục điều tra xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Quy trình thủ tục điều tra xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường tuân theo thủ tục chung đối với việc điều tra xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Quá trình này bao gồm các bước cụ thể sau:
Bước 1: Khiếu nại vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Tổ chức, cá nhân cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Quyền khiếu nại không chỉ thuộc về bên bị hại, mà còn thuộc về người tiêu dùng. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, pháp luật cạnh tranh cho phép người tiêu dùng có quyền khiếu nại thông qua các Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
Trong trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện hành vi lạm dụng tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện sẽ được cơ quan có thẩm quyền áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sớm có thái độ tích cực, chấm dứt hành vi vi phạm, thực hiện khắc phục hậu quả. Trong trường hợp nhận được khai báo của doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ tự tiến hành điều tra.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh tiến hành kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ. Các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ được quy định trong Điều 45 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Trường hợp hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh không có đủ các tài liệu nói trên, cơ quan quản lý cạnh tranh thông báo cho bên khiếu nại bổ sung trong thời hạn không quá 30 ngày; trong trường hợp đặc biệt, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể gia hạn 1 lần không quá 15 ngày theo đề nghị của bên khiếu nại [28].
Quy định về nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, bên khiếu nại phải nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh. Tiền tạm ứng chi phí giải quyết vụ việc cạnh tranh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh là 30.000.000 đồng [9]. Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh sau khi nhận đươc biên lai nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, trừ trường hợp bên khiếu nại được miễn nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh. Đối với thị trường kinh doanh xăng dầu, ngoài đối tượng là người tiêu dùng được miễn tiền tạm ứng chi phí giải quyết vụ việc cạnh tranh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, một đối tượng khác cần quan tâm do họ cũng là đối tượng bị ảnh hưởng bởi các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đó là các đại lý bán lẻ và thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu. Nếu quyền lợi của họ bị ảnh hưởng, khoản tạm ứng án phí cũng tạo ra rào cản trong việc khiếu nại hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, do khả năng tài chính không đủ mạnh. Đặc biệt khi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP đã bổ sung một đối tượng tham gia thị trường kinh doanh xăng dầu là thưởng nhân nhận quyền bán lẻ, Pháp luật cạnh tranh cần có những quy định chi tiết để bảo vệ các đối tượng này.
Bước 2: Điều tra vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định điểu tra sơ bộ vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong các trường hợp: (i) Hồ sơ khiếu nại vụ việc hạn chế cạnh tranh đã được thụ lý; hoặc (ii) Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Thời hạn điều tra sơ bộ bao gồm cả việc phân công điều tra viên, hoàn thành điểu tra sơ bộ và kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý kết quả điều tra. Đây là giai đoạn cơ sở, phát hiện những vi phạm đầu tiên để tiến hành điều tra chính thức. Trong trường hợp không đủ cơ sở để tiến hành điều tra chính thức thì Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Nội dung điều tra chính thức bao gồm: (i) Xác minh thị trường liên quan; (ii) Xác minh thị phần của doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường liên quan; (iii) Thu thập và phân tích chứng cứ của hành vi vi phạm. Thời hạn điều tra chính thức đối với vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là 180 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 60 ngày [28].
Trên thực tế, nếu tính cả gia hạn thì tổng thời hạn điều tra chính thức vụ việc hạn chế cạnh tranh không được vượt quá 10 tháng. Việc quy định thời hạn điều tra có tác động tích cực đối với trách nhiệm của cơ quan điều tra, tránh tình trạng kéo dài, trì trệ, nhưng khoảng thời gian quy định như trên liệu có hợp lý đối với tất cả các vụ việc hạn chế cạnh tranh hay không thì còn cần phải xem xét. Đối với thị trường kinh doanh xăng dầu là một thị trường tương
đối phức tạp, nhạy cảm, nhiều yếu tố chi phối, liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, vì vậy việc xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một việc rất phức tạp và mất thời gian. Ngoài ra, pháp luật Cạnh tranh cũng chưa có những quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan quản lý cạnh tranh nếu không kết thúc việc điều tra chính thức đúng thời hạn.
Bước 3: Phiên điều trần
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam – thông qua các quy định về phiên điều trần – đã cho phép các cơ quan hành chính nhà nước xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Sau khi Hội đồng Cạnh tranh thụ lý hồ sơ vụ việc hạn chế cạnh tranh, Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh sẽ ra quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để nghiên cứu hồ sơ, đưa ra hướng giải quyết vụ việc trong vòng 30 ngày. Nếu nhận thấy đủ cơ sở thành lập phiên điều trần, Hội đồng xử lý sẽ ra quyết định mở phiên điều trần. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định mở phiên điều trần, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh phải mở phiên điều trần.
Phiên điều trần được tổ chức công khai, trừ những trường hợp liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh cần phải tổ chức kín. Thành phần tham gia phiên điều trần gồm có: Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Thư ký phiên điều trần; Điều tra viên đã điều tra vụ việc cạnh tranh; Bên bị điều tra; Bên khiếu nại; Luật sư và những người khác được ghi trong quyết định mở phiên điều trần. Tại phiên điều trần, các bên sẽ có cơ hội trình bày các lập luận, đưa ra các căn cứ, yêu cầu của mình, được tranh luận để bảo vệ những lập luận của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc hỏi và tranh luận tại phiên điều trần phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh phải tham dự phiên điều trần từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trừ trường hợp thành viên Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không thể tiếp tục tham gia phiên điều trần thì thành viên Hội đồng Cạnh tranh tham dự phiên điều trần sẽ