Xây Dựng Hệ Thống Bctc Linh Hoạt Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam

- 134 -


- Trước mắt (1-3 năm tới): Đổi tên Báo cáo KQHĐKD thành “ Báo cáo lợi nhuận”. Phần báo cáo về thu nhập tổng hợp khác được trình bày trong Thuyết minh BCTC;

- Tiếp theo đó, đổi tên “Báo cáo lợi nhuận” thành “ Báo cáo lợi nhuận tổng hợp”, hoặc “ Báo cáo lãi lỗ và thu nhập khác” trình bày đầy đủ 2 phần “ Báo cáo lãi lỗ” và “Báo cáo thu nhập tổng hợp khác”.

Mẫu “Báo cáo lợi nhuận” và “Báo cáo lợi nhuận tổng hợp” theo đề nghị của luận án được trình bày tại Phụ lục 13, Phụ lục 14.

(iii) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

(1) Xem xét quy định về các khoản thu thấu chi (bank-overdrafts) và các khoản tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn trong các luồng tiền, theo hướng: khoản thấu chi ngân hàng phải được ứng xử như là một khoản nợ vay ngắn hạn và xếp vào các luồng tiền của hoạt động tài chính (Mục III.3 – Tiền vay ngắn hạn, dài hạn nhận được); các khoản tăng giảm về “tiền gởi tiết kiệm” nên được xếp vào các dòng thu, chi như là một khoản tiền gởi ngân hàng.

(2) Ngoài ra, về mặt kỹ thuật, cần quy định phân biệt rõ nợ phải trả do mua hàng hóa, nguyên liệu, nhận cung cấp dịch vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh và nợ phải trả do mua sắm TSCĐ thuộc hoạt động đầu tư trong lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp để tránh sự lẫn lộn giữa dòng tiền hoạt động đầu tư và dòng tiền hoạt động tài chính.

(iv) Thuyết minh BCTC

(1) Bổ sung thuyết minh các khoản trích lập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính để nhà đầu tư có những thông tin cụ thể về và chi tiết giá trị của các khoản đầu tư, các khoản dự phòng giảm giá đầu tư tài chính. Việc công khai trích lập các khoản dự phòng này, cùng với các giải thích về cách thức trích lập dự phòng, lý do không trích lập dự phòng rất có ý nghĩa đối với nhà đầu tư khi xem xét và đánh giá tổn thất với từng khoản đầu tư tài chính. Nội dung thuyết minh có thể rất ngắn gọn song có ý nghĩa tham khảo quan trọng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.

- 135 -


Vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp trong điều kiện ở Việt Nam - 19

(2) Công bố các thông tin về trái phiếu chuyển đổi của các công ty niêm yết tại Mục V.20 trên Bản thuyết minh BCTC. Những thông tin này là cơ sở rất quan trọng để đánh giá khả năng thanh toán, cũng như dự đoán EPS của công ty. Những thông tin cần phải thuyết minh bao gồm:

+ Trái phiếu chuyển đổi tại thời điểm đầu kỳ;

+ Trái phiếu chuyển đổi phát hành thêm trong kỳ;

+ Trái phiếu chuyển đổi được chuyển thành cổ phiếu trong kỳ;

+ Trái phiếu chuyển đổi đáo hạn không chuyển thành cổ phiếu trong kỳ;

+ Trái phiếu chuyển đổi tại thời điểm cuối kỳ.

(3) Bắt buộc trình bày tách biệt các hoạt động tiếp tục khỏi các hoạt động gián đoạn trong phần thuyết minh BCTC

Theo IFRS 5 - Tài sản dài hạn chờ bán và hoạt động gián đoạn - các hoạt động tiếp tục và ngưng trệ được yêu cầu trình bày riêng biệt. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người sử dụng các BCTC tăng khả năng dự đoán các dòng tiền, EPS và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó VAS chưa đề cập đến yêu cầu này, dẫn đến nhà đầu tư, người cho vay thiếu cơ sở đánh giá xác thực về năng lực hoạt động thực sự của doanh nghiệp.

Do vậy, trước mắt, cần bổ sung quy định yêu cầu thuyết minh các hoạt động bị ngưng trệ trong Bảng thuyết minh BCTC.

(4) Để khắc phục tình trạng khá cồng kềnh hiện nay của thuyết minh BCTC, có thể xem xét chỉ trình bày chi tiết những thông tin đối với các trường hợp: các chỉ tiêu được lập trên cơ sở “tập hợp” thông tin từ nhiều tài khoản cấp một và khác nhau về bản chất, chức năng; hoặc các chỉ tiêu được lập trên cơ sở “bù trừ” giữa tài sản và nợ, giữa doanh thu và chi phí, giữa thu và chi.

(5) Ngoài ra, IAS 1 yêu cầu trình bày các xét đoán và các khía cạnh không chắc chắn mà lãnh đạo đơn vị sử dụng trong quá trình lập BCTC. Đây là những thông tin tham khảo quan trọng cần được bổ sung trên thuyết minh BCTC.

- 136 -


3.2.1.3. Xây dựng hệ thống BCTC linh hoạt trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Những phân tích ở mục 2.3.3.2 cho thấy hệ thống BCTC hiện thiếu sự linh hoạt và chưa đặt trọng tâm vào việc đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin phù hợp của nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác nhau. Xây dựng một hệ thống BCTC linh hoạt là một tất yếu để nâng cao tính hữu ích của BCTC.

(a) Đặc điểm, mô hình của hệ thống BCTC linh hoạt

Tính linh hoạt thể hiện ở quy định mở về phạm vi lập báo cáo, linh hoạt trong nội dung, kết cấu của báo cáo, vừa đảm bảo cung cấp thông tin tối thiểu cần thiết mang tính bắt buộc theo khuôn khổ, vừa cho phép công bố thông tin chi tiết phù hợp với quy mô, loại hình và đặc thù riêng, trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu cơ bản của kế toán.

Tính đa dạng của BCTC theo các nhóm đối tượng sử dụng thông tin chính là kết quả của sự linh hoạt, trên nền tảng một hệ thống BCTC chuẩn hóa. Linh hoạt và đa dạng hóa BCTC là hai khía cạnh của cùng một vấn đề. Theo đó, linh hoạt là cơ sở của đa dạng hóa; còn đa dạng hóa là biểu hiện cụ thể của tính linh hoạt, được thực hiện trên nền tảng của sự linh hoạt.

Điều kiện cần của hệ thống BCTC linh hoạt là một hệ thống BCTC tiêu chuẩn hóa.

Đặc điểm của mô hình BCTC linh hoạt có thể được phác họa như sau:

- Phạm vi của chỉ tiêu công bố cụ thể của doanh nghiệp so với khuôn khổ các chỉ tiêu của hệ thống BCTC tiêu chuẩn được minh họa tại Hình 3.1.

Hệ thống chỉ tiêu thông tin công bố trên BCTC doanh nghiệp A

Khuôn khổ các chỉ tiêu của hệ thống BCTC tiêu chuẩn

- 137 -


Hệ thống chỉ tiêu thông tin công bố trên BCTC doanh nghiệp B

Hình 3.1: Mô hình về phạm vi của thông tin công bố trong hệ thống BCTC linh hoạt.


Mức độ chi tiết của thông tin X trên BCTC công bố của doanh nghiệp A

Mức độ chi tiết của thông tin X trên hệ thống BCTC tiêu chuẩn

- Mức độ chi tiết của chỉ tiêu thông tin công bố cụ thể của doanh nghiệp so với các chỉ tiêu của hệ thống BCTC tiêu chuẩn được minh họa tại Hình 3.2.


Mức độ chi tiết của thông tin X trên BCTC công bố của doanh nghiệp B

Hình 3.2: Mô hình về mức độ chi tiết của thông tin công bố trong hệ thống BCTC linh hoạt.

- 138 -


Việc trình bày và công bố thông tin của doanh nghiệp trong mô hình BCTC linh hoạt phác họa ở trên cần tuân theo quy tắc:

(1) Hệ thống các chỉ tiêu của hệ thống BCTC tiêu chuẩn được mã hóa thống nhất bằng các mã số thích hợp;

(2) Khi trình bày và công bố các thông tin, các doanh nghiệp phải tuân thủ hệ thống các mã số này để đảm bảo thông tin kế toán mà doanh nghiệp công bố trong nền kinh tế có sự nhất quán và so sánh được.

Với đặc điểm của hệ thống BCTC linh hoạt được đề xuất và phác họa ở trên, doanh nghiệp có thể chủ động trong trình bày và công bố những thông tin cần thiết, thích hợp với 4 nhóm đối tượng sử dụng thông tin chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Đó là: BCTC phục vụ nhà đầu tư (các cổ đông, người nắm giữ các chứng khoán chuyển đổi, hợp đồng quyền chọn, quyền mua); chủ nợ (những người cung cấp các khoản vay, tài trợ vốn, tín dụng thương mại, người nắm giữ các chứng chỉ nợ); nhà quản trị nội bộ; và Nhà nước (các cơ quan tài chính, thuế, thống kê, vv…).

(b) Xây dựng hệ thống BCTC linh hoạt

(1) Trước hết, xây dựng một hệ thống BCTC doanh nghiệp tiêu chuẩn.

Hệ thống các chỉ tiêu của báo cáo “tiêu chuẩn” này bao quát được nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động kinh tế đa dạng, có thể áp dụng được cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phụ thuộc vào quy mô.

Hệ thống này được thực hiện trên cơ sở thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp và kết quả bổ sung, điều chỉnh hệ thống BCTC hiện hành đã được trình bày ở trên. Nó một mặt đảm bảo được tính có thể so sánh giữa các loại hình BCTC được phát triển từ hệ thống này, một mặt nó là cơ sở đáp ứng sự thay đổi linh hoạt trong nhu cầu thông tin của các bên sử dụng thông tin, cũng như mục đích và khả năng cung cấp thông tin kế toán của các doanh nghiệp.

Như vậy, Nhà nước không ban hành nhiều chế độ kế toán mà thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp, trên cơ sở đó, quy định hoặc hướng dẫn áp dụng phù hợp với các doanh nghiệp khác nhau về quy mô và đặc thù hoạt động kinh doanh.

- 139 -


(2) Trên cơ sở hệ thống BCTC tiêu chuẩn, Nhà nước quy định hoặc hướng dẫn về dung lượng và đặc điểm những thông tin tối thiểu phải công bố đối với từng loại doanh nghiệp :

- Công ty niêm yết, công ty đại chúng;

- Doanh nghiệp nhà nước;

- Công ty bảo hiểm;

- Công ty chứng khoán;

- Doanh nghiệp nhỏ và vừa;

- Hợp tác xã.

(3) Tùy thuộc vào quy mô, đặc điểm ngành nghề, mỗi doanh nghiệp soạn thảo, trình bày và công bố BCTC phù hợp với hệ thống BCTC tiêu chuẩn, với các mức độ chi tiết khác nhau, đáp ứng yêu cầu về thông tin tối thiểu cần phải công bố đã được quy định hoặc hướng dẫn.

Minh họa cho một Báo cáo tình hình tài chính của một Công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh thương mại quy mô vừa và nhỏ vận dụng Hệ thống BCTC linh hoạt theo đề nghị của luận án được trình bày tại Phụ lục 15.


Lộ trình cho việc xây dựng một hệ thống BCTC linh hoạt và đa dạng hóa là điều cần phải cân nhắc vì nó liên quan đến một hệ thống BCTC tiêu chuẩn. Trước mắt, cần khắc phục đến mức có thể những hạn chế của hệ thống BCTC hiện hành, trên cơ sở đó mới có thể tiến hành các giải pháp linh hoạt và đa dạng hệ thống báo cáo. Sau đó, tính linh hoạt của hệ thống BCTC cũng sẽ từng bước thích nghi với các giải pháp dài hạn nhằm phát triển và hoàn thiện hệ thống kế toán nói chung và hệ thống BCTC nói riêng.

- 140 -


3.2.2. Các giải pháp dài hạn phát triển và hoàn thiện hệ thống Báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam

Nếu việc xác lập quan điểm, phương hướng một cách rõ ràng và nhất quán là then chốt thì việc đề ra giải pháp dài hạn và một lộ trình thực hiện hợp lý được xem là trọng tâm của quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống BCTC.

Những giải pháp phát triển và hoàn thiện hệ thống BCTC doanh nghiệp mà luận án đề xuất và định hướng liên quan đến :

(1) Sử dụng Giá trị hợp lý trong định giá các yếu tố của BCTC;

(2) Ghi nhận và báo cáo nguồn lực tri thức doanh nghiệp trên BCTC;

(3) Ghi nhận và báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC.

Các giải pháp nêu trên là những vấn đề đã được một số quốc gia trên thế giới bắt đầu triển khai áp dụng, cũng chính là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến 7 xu hướng phát triển của kế toán trong thời gian tới, bao gồm: kế toán xã hội, kế toán nguồn lực tri thức, kế toán chi phí vốn, công bố dự toán tài chính, báo cáo dòng tiền, báo cáo lao động, báo cáo giá trị gia tăng (Ahmed et al, 2004).

Để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế về kế toán, việc sử dụng giá trị hợp lý trong định giá là cần thiết và là xu thế tất yếu ở Việt Nam. Báo cáo nguồn lực tri thức và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC cũng là điều không kém quan trọng để đáp ứng yêu cầu hòa hợp với thông lệ quốc tế, với một lộ trình thích hợp.

3.2.2.1. Định hướng sử dụng Giá trị hợp lý trong định giá các yếu tố của BCTC

(a) Xu hướng tất yếu của việc sử dụng giá trị hợp lý trong định giá các yếu tố của BCTC

Về lý thuyết, các giá trị đo lường trong kế toán bao gồm:

- Giá gốc (Historical cost): Số tiền (hoặc các khoản tương đương tiền) đã trả hay giá trị hợp lý của tài sản tại thời điểm có được tài sản.

- Giá trị hiện tại (Current value):

+ Giá hiện hành (Current cost): Số tiền (hoặc các khoản tương đương tiền) sẽ phải trả để có được tài sản tương tự tại thời điểm hiện tại.

- 141 -


+ Giá trị thuần có thể thực hiện (Net reliazable value): Số tiền (hoặc các khoản tương đương tiền) có thể thu được nếu bán tài sản tại thời điểm hiện tại.

+ Hiện giá (Present value): Giá trị hiện tại chiết khấu của các khoản tiền thuần nhận được từ việc sử dụng tài sản.

Giá trị hợp lý lần đầu tiên được IASB đề cập trong IAS 16 –Nhà xưởng, máy móc và thiết bị, là “giá trị tài sản có thể đem trao đổi giữa các bên có hiểu biết, có thiện chí trong một giao dịch trao đổi ngang giá” (IASB, 2012c)

Tháng 5 năm 2009, IASB công bố “Dự thảo về đo lường giá trị hợp lý”, theo đó, giá trị hợp lý được hiểu là “giá trị sẽ nhận được khi bán một tài sản hay giá trị thanh toán để chuyển giao một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có tổ chức giữa các bên tham gia thị trường tại ngày đo lường”. Định nghĩa về giá trị hợp lý trong dự thảo này tương tự như định nghĩa giá trị hợp lý được đưa ra trong báo cáo số 157 “Đo lường giá trị hợp lý” (FAS 157) của FASB. Định nghĩa này thống nhất giá trị hợp lý của tài sản và nợ phải trả trong hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế là “giá trị đầu ra” của tài sản hay nợ phải trả. Giá trị đầu ra có thể được xác định trực tiếp từ thị trường hay ước tính bằng cách sử dụng các kỹ thuật định giá.

Tháng 9/2010, IASB công bố dự thảo IFRS 13 - Đo lường giá trị hợp lý và tháng 5/2011, IASB phát hành IFRS 13 - Đo lường theo giá trị hợp lý (Fair Value Measurement) - có hiệu lực từ 01/01/2013.

Theo IFRS 13, giá trị hợp lý được IASB xác định là giá trị sẽ nhận được khi bán một tài sản hay giá trị thanh toán để chuyển giao một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có tổ chức giữa các bên tham gia thị trường tại ngày đo lường (IASB, 2011).

IFRS 13 đưa ra 3 cấp độ xác định giá trị hợp lý, các vấn đề về kỹ thuật định giá, công bố thông tin cũng được quy định cụ thể. Như vậy, IFRS 13 “đã phát triển tính nhất quán và giảm thiểu độ phức tạp bằng cách cung cấp, lần đầu tiên, một định nghĩa chính thức về giá trị hợp lý và một nguồn thống nhất đo lường giá trị hợp lý và yêu cầu công bố thông tin để sử dụng trong hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế” (IFRS, 2011a).

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/11/2022