doanh nghiệp có thể nhanh chóng bắt tay vào xây dựng cơ bản và sớm đi vào hoạt động sản xuất.
Các ngành nghề đầu tư hoạt động trong KCN bao gồm: công nghiệp nhẹ, điện tử, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu, công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu. ở các vùng kinh tế trọng điểm (tam giác phát triển tại khu vực phía Bắc, phía Nam, và khu vực Đà Nẵng - Dung Quất có thêm công nghiệp hoá dầu), công nghiệp chế biến khí tại Vũng Tầu. Cơ cấu ngành nghề của các KCN được gắn liền với lợi thế của từng vùng tránh triệt tiêu lẫn nhau.
BẢNG 5: CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC KCN VIỆT NAM
Số doanh nghiệp | Vốn đầu tư | |
- Doanh nghiệp trong nước | 604 | 31.646 tỷ VNĐ |
- Doanh nghiệp có vốn ĐTNN | 748 | 8.722 tỷ USD |
Tổng cộng | 1.352 | 8.722 tỷ USD và 31.646 VNĐ |
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Lược Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển:
- Môi Trường Pháp Lý Và Những Ưu Đãi Dành Cho Kcn - Kcx Việt Nam;
- Bức Tranh Chung Về Thu Hút Đầu Tư Vào Kcn - Kcx Ở Việt Nam
- Những Đánh Giá Chung Về Tình Hình Thu Hút Fdi Vào Các Kcn - Kcx Những Năm Qua.
- Bối Cảnh Kinh Tế Vĩ Mô Và Những Định Hướng Cơ Bản Cho Việc Phát Triển Kcn-Kcx:
- Một Số Giải Pháp Cơ Bản Hoàn Thiện Các Khu Công Nghiệp – Khu Chế Xuất Nhằm Tăng Cường Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài:
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án đầu tư nước ngoài-Bộ Kế hoach và Đầu tư
Các KCN tại Việt Nam rất đa dạng về loại hình, diện tích đất, ngành nghề, đối tượng thu hút đầu tư, không gian hoạt động và thời gian thành lập. Tính đa dạng đó đã góp phần vào kết quả hoạt động của các KCN trong thời gian qua.
2.2.2. Tình hình thu hút dự án và vốn FDI vào các KCN – KCX
Bảng 3 và bảng 4 (trang 56) cho biết tình hình cấp phép và triển khai các dự án FDI tại các KCN - KCX ở Việt Nam những năm qua.
Các số liệu cho thấy, tính đến 31/12/2001 có 784 dự án FDI được cấp giấy phép đầu tư với hơn 10 triệu USD đăng ký và 295 dự án tăng vốn mở rộng hoạt động sản xuất với 1.655 triệu USD. So với vốn đăng ký của các dự án FDI trong cả nước, tỷ trọng vốn FDI tại các KCN-KCX chiếm 22%. Nếu tính riêng các ngành công nghiệp sản xuất (trừ dầu khí, du lịch, khách sạn, khu đô thị, vui chơi giải trí, bệnh viên, trường học, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, trồng rừng) thì tỷ trọng này chiếm 35%.
Thu hút FDI vào các KCN-KCX đạt kết quả tốt nhất vào những năm 1995, 1996. Đến năm 1998-1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung bị suy yếu nghiêm trọng. Ngoài ra do sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc nên các dự án FDI vào các KCN- KCX Việt Nam bị giảm rò rệt. Bước sang năm cuối cùng của thế kỷ XX, để cải thiện môi tường đầu tư, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, việc cải tiến những thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến rò rệt và do những phục hồi kinh tế của khu vực sau khủng hoảng nên tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tăng đáng kể, dần dần trở lại mức phát triển đã đạt được trước đó. Riêng năm 2000, các KCN-KCX Việt Nam đã thu hút được 160 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 469 triệu USD.
Doanh nghiệp FDI đầu tư vào các KCN-KCX chủ yếu là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 85% của các dự án FDI, còn lại là doanh nghiệp liên doanh. Tính đến cuối năm 2000, trừ 41 dự án bị rút giấy phép trước thời hạn với gần 714 triệu USD đăng ký, tổng số các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN-KCX còn hiệu lực là 743 dự án với 8.990 triệu USD vốn đăng ký, Trong số đó có 15 dự án phát triển hạ
tầng với 885 triệu USD vốn đăng ký và 728 dự án sản xuất và dịch vụ công nghiệp (doanh nghiệp KCN có vốn FDI) với 8.105 triệu USD vốn đăng ký.
Bảng 6 phản ánh tình hình các đối tác đầu tư vào các KCN – KCX. Trong số 33 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào KCN-KCX, các quốc gia châu Á có một vị trí hết sức quan trọng. Nếu căn cứ theo số dự án, 7 nước châu Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan và Ma-lai-xi-a đã chiếm trên 80% trên tổng số dự án, trong đó Đài Loan đứng thứ nhất với 216 dự án, tiếp theo đó là Nhật Bản 114 dự án và Singapore 60 dự án. Nhìn chung, đầu tư của Mỹ và các nước châu Âu còn hạn chế với 20 dự án của Mỹ, 20 dự án của Pháp… đa số đều là những dự án sản xuất và dịch vụ.
Về vốn đầu tư, Đài Loan đứng đầu với 1.507 triệu USD đầu tư vào các KCN-KCX; tiếp theo đó là Nhật Bản - 1.444 triệu USD; Nga –1.338 triệu USD (tính cả dự án nhà máy lọc dầu số I); Hàn Quốc – 1.010 triệu USD; Singapore 495 triệu USD.
2.2.3. Tình hình thu hút FDI vào KCN - KCX theo địa phương
Để thấy được tình hình thu hút FDI vào các KCN - KCX ở các địa phương và vùng lãnh thổ trên cả nước, có thể xem Bảng 7 (trang 59).
Số liệu trong Bảng 7 cho thấy, hơn một thập kỷ qua, mặc dù cả nước thi hành những chính sách chung về thu hút FDI nhưng kết quả thực hiện ở từng địa phương và vùng lãnh thổ không giống nhau.
* Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ: Cho đến nay, các KCN-KCX ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đã thu hút được 56 dự án FDI với 1.013 triệu USD và 253,4 tỷ đồng vốn đăng ký. Tuy nhiên trong hai năm 2000 và 2001 số dự án FDI đăng ký trong các KCN-KCX vùng này rất ít. Nhìn chung số lượng các dự án FDI có mặt trong các KCN-KCX khu vực này còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
* Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ: So với các vùng khác, vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ có nhiều KCN-KCX nhất trong cả nước (38 khu) và đã thu hút được nhiều dự án FDI nhất 1.034 dự án với tổng số vốn đăng ký
6.293 triệu USD và trên 25.727 tỷ đồng. Trong đó đầu tư trong nước có 33 dự án phát triển hạ tầng với 375 triệu USD và 8.632 tỷ đồng vốn đăng ký; đầu tư nước ngoài có 6 dự án phát triển hạ tầng với 325 triệu USD vốn đăng ký và 629 dự án doanh nghiệp KCN với 5.917 triệu USD vốn đăng ký.
Hoạt động của các KCN-KCX khu vực này đạt kết quả khả quan, doanh thu chiếm trên 80% doanh thu của các KCN-KCX trong cả nước. Nhiều KCN-KCX như Biên Hoà I, Biên Hoà II, Việt Nam - Singapore, Tân Thuận, Linh Trung… được đánh giá là thành công. Đặc biệt, trong khu vực này, Đồng Nai là địa phương đã phát huy được những lợi thế của mình qua các chính sách ưu đãi (như nói trên kia), đã thành công nổi bật trong thu hút FDI vào các KCN – KCX. Đồng Nai đã quy hoạch được 17 KCN với tổng diện tích 8.119 ha trong đó có 10 KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có tổng diện tích là 2.718 ha. Tại 10 KCN này hiện có 326 dự án đầu tư đã được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 4.537 triệu USD trong đó có 228 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là 4.195,84 triệu USD. Việc phát triển các KCN không những đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước mà còn là động lực kích thích việc phát triển hạ tầng các khu đô thị và dân cư lân cận KCN; nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp và đô thị hoá các khu vực dân cư. Với hàng trăm doanh nghiệp đang hoạt động, các KCN Đồng Nai đã giải quyết việc làm cho hơn 105 nghìn lao động với mức thu nhập bình quân 700 đến 800 ngàn đồng/ người/ tháng, đồng thời hình thành lực lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật có tri thức, tay nghề, tiếp thu được các phương pháp quản lý tiên tiến và công nghệ hiện đại của các nước. Các KCN Đồng Nai cũng dẫn đầu cả nước trong việc thu hút FDI. Các KCN Amata, Loteco,
Biên Hoà II, Gò dầu, Nhơn trạch 1 đã cơ bản hoàn chỉnh các hạng mục hạ tầng và đã cho thuê được phần lớn diện tích đất dành cho thuê. Đánh giá chung đến nay trong toàn bộ 10 KCN đã cho thuê được 48,9% diện tích đất công nghiệp. Đạt được những kết quả trên, ngoài những yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý, một trong những nguyên nhân chủ yếu mang lại thành công cho Đồng Nai là đã tạo ra được một môi trường đầu tư thuận lợi.
* Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ: Tính đến hết năm 2001, các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ đã thu hút được 108 dự án với 1.556 triệu USD và 2.673 tỷ đồng vốn đăng ký (bao gồm dự án Nhà máy lọc đầu số I, vốn đầu tư 1.300 USD, liên doanh với Cộng hoà Liên bang Nga). Trong đó:
- Đầu tư trong nước: gồm 6 dự án xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng với 37,3 triệu USD và 563 tỷ đồng vốn đăng ký; 86 dự án doanh nghiệp KCN với 2.110 tỷ đồng vốn đăng ký.
- Đầu tư nước ngoài: có 1 dự án phát triển hạ tầng với 13 triệu USD vốn đăng ký và 15 dự án doanh nghiệp KCN với 1.506 triệu USD vốn đăng ký.
Ở vùng Trung bộ, Dung Quấât là KCN lớn với những ưu đãi đặc thù đã bước đầu thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Nhờ được tập trung nguồn vốn đầu tư nên Dung Quất đến nay đã hoàn thiện một bước hệ thống hạ tầng, kết hợp với việc thi hành những chính sách ưu đãi đã tạo ra sức hút mạnh mẽ các dự án đầu tư, trong đó có một số dự án quy mô vốn lên đến hàng trăm triệu USD đã đăng ký đầu tư như dự án sản xuất nhựa PP, nhựa PVC, sợi tổng hợp PS, gas hoá lỏng LPG, sản xuất chất tẩy rửa công nghiệp LAB, nhà máy En Parapin… và một số dự án công nghiệp nặng gắn với cảng biển nước sâu (luyện cán thép, đóng sửa tàu thuỷ, sản xuất thiết bị nặng…). Đã có 14 dự án được cấp phép đầu tư với số vốn 1.530 triệu USD và gần 300 tỷ VND. Theo dự kiến, với tiến độ như hiện nay, việc áp dụng những cơ chế ưu đãi, khuyến khích mạnh mẽ, cộng với những nỗ lực và tích cực trong vận động đầu tư thì đến 2005 có thể sẽ thu hút vào KCN Dung
Quất số vốn đầu tư tương đương với vốn đầu tư của nhà máy lọc dầu số 1 (1,3 tỷ USD), giải quyết việc làm cho 1,5 - 2 vạn lao động, trong đó riêng công nghiệp hoá dầu, hoá chất khoảng 700 triệu USD.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể có thể cho rằng, việc thu hút đầu tư vào các KCN ở vùng này, đặc biệt là đầu tư nước ngoài rất chậm. Đây là đặc điểm chung của cả khu vực miền Trung. Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, chi phí đầu tư cao, xây dựng cơ sở hạ tầng gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong việc vận chuyển hàng hoá, thiên tai nhiều, thu nhập dân cư thấp và trình độ dân cư kém ảnh hưởng xấu đến việc phát triển nguồn nhân lực.
* Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 7 KCN - KCX với diện tích gần 830 ha, chiếm hơn 7% tổng diện tích các KCN-KCX và vùng núi Bắc Bộ có 2 KCN diện tích 139 ha. Nhìn chung sự phát triển của các KCN-KCX này đều đã tuân thủ quy hoạch định hướng của Chính phủ, và tập trung tại những nơi có điều kiện thuận lợi.
2.2.4. Tình hình thu hút FDI vào KCN - KCX theo lĩnh vực đầu tư
Bảng 8 cho thấy tình hình thu hút FDI vào các KCN - KCX cho các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau.
BẢNG 8: TÌNH HÌNH CÁC DỰ ÁN FDI TRONG KCN, KCX THEO NGÀNH
(Tính đến 31/12/2000)
Ngành | Số dự án | Vốn đầu tư (1.000 USD) | Vốn thực hiện (1.000 USD) | Tỷ lệ thực hiện (%) | |
1 | Công nghiệp nặng | 300 | 2.843,30 | 1.353,31 | 47,60 |
2 | Công nghiệp nhẹ | 262 | 2.293,16 | 875,03 | 38,16 |
3 | Công nghiệp dầu khí | 3 | 1.336,48 | 573,38 | 42,90 |
4 | Nông – Lâm – Ngư nghiệp | 47 | 488,66 | 292,91 | 59,94 |
5 | Công nghiệp thực phẩm | 39 | 457,83 | 237,11 | 51,79 |
6 | Xây dựng | 36 | 427,33 | 80,24 | 18,78 |
7 | Dịch vụ | 24 | 121,70 | 58,89 | 48,39 |
8 | Văn hóa – Y tế – Giáo dục | 8 | 86,84 | 25,46 | 29,32 |
9 | Thủy sản | 7 | 46,52 | 31,36 | 67,41 |
10 | GTVT – Bưu điện | 2 | 3,72 | 1,27 | 34,09 |
Tổng cộng | 728 | 8.105,53 | 3.528,95 | 43,54 |
Ghi chú: số liệu tính đến hết năm 2000 và chỉ đối với các dự án còn hiệu lực, không kể các dự án phát triển hạ tầng
(Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT)
Theo bảng này, trong các KCN – KCX, đầu tư cho GTVT- Bưu điện có số dự án ít nhất, ít hơn cả trong nông – lâm – ngư nghiệp. Công nghiệp nặng đứng đầu cả về số dự án và vố đầu tư, đứng tiếp sau là công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc…,) Lắp ráp điện tử và công nghiệp thực phẩm là dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp nặng là 2.843 triệu USD; ngành công nghiệp nhẹ là
2.293 triệu USD. Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN- KCX đã "có mặt" ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp chủ chốt, từ công nghiệp nặng như sản xuất vật liệu xây dựng, sắt thép, hoá chất, điện, cơ khí… đến công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm.
2.2.5. Tình hình cho thuê đất tại các KCN - KCX
Trong các KCN-KCX các nhà đầu tư thuê lại đất của doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Với phương thức kinh doanh chủ yếu là vừa đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng, vừa tranh thủ kêu gọi, thu hút đầu tư,
Bảng 9: TÌNH HÌNH CHO THUÊ ĐẤT TẠI CÁC KCN-KCX
Số KCN - KCX | |
Đã cho thuê từ 80% trở lên | 5 |
Đã cho thuê từ 50%- 80% | 8 |
Đã cho thuê từ 30%- 50% | 18 |
Đã cho thuê từ 10%- 30% | 12 |
Đã cho thuê từ 01%- 10% | 14 |
Chưa cho thuê được đất | 15 |
Tổng cộng (Không tính khu Dung Quất) | 72 |
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án cđầu tư nước ngoài-Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đến nay các KCN-KCX đã cho thuê được 2.652 ha, chiếm gần 34% tổng diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê.
Một số khu đã cho thuê hết diện tích đất công nghiệp như KCN Biên Hoà I, Biên Hoà II, Bình Chiểu. Các KCN có tỷ lệ cho thuê đất cao là Phú Tài (84%), Gò Dầu 72%, Tân Thuận 64%, Đồng An 69%… đa số các KCN của tỉnh Bình dương đã đạt tỷ lệ đất cho thuê hơn 70% diện tích. Một số KCN đã tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng giai đoạn 2 hoặc mở rộng như KCN Việt Nam – Singapore, KCX Linh Trung, KCN Việt Hương và KCN Sài Đồng B. Nhìn vào số liệu chúng ta thấy nhìn chung tỷ lệ cho thuê đất ở các KCN-KCX Việt Nam còn thấp. Nhiều khu chưa thu hút được một dự án đầu tư nào cả trong nước lẫn đầu tư nước ngoài. Ngoài nguyên nhân do đầøu tư nước ngoài – đối tượng chính của các KCN-KCX suy giảm, còn có một nguyên nhân quan trọng khác nữa là trong các năm 1996, 1997 và 1998 đã có quá nhiều các KCN-KCX được quyết định thành lập. Trong các KCN- KCX, do cơ sở hạ tầng và mặt bằng được doanh nghiệp phát triển xây dựng sẵn và cho thuê lại nên giá thuê đất cao hơn rất nhiều so với đất bên ngoài, do đó khó thu hút được các doanh nghiệp liên doanh và nhất là các doanh nghiệp trong nước. Nhất là tại các KCN-KCX do nhà đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, chất lượng hạ tầng tốt, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên giá đất đặc biệt cao. Đây là lý do tại sao doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn trong các nhà đầu tư của các KCN-KCX.
Giá thuê lại đất và phí hạ tầng trong các KCN-KCX cao hơn hẳn so với ngoài KCN-KCX là do kết cấu trong giá thành thuê lại đất chủ yếu là chi phí đền bù, giải toả và chi phí san lấp mặt bằng, xây dưnïg các công trình hạ tầng kỹ thuật. Giá thuê đất thô (giá thuê của nhà nước) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Ngoài ra, do phải bỏ vốn trước tạo sẵn mặt bằng và xây dưnïg các công trình kỹ thuật nên nếu như thu hút đầu tư chậm thì hiệu qủa vốn đầu tư sẽ