thấp. Do đó doanh nghiệp phát triển hạ tầng tính toán giá thuê lại đất thường ở mức cao để giảm bớt rủi ro. Hiện nay, nhà nước chủ trương từng bước giảm thiểu chi phí cho nhà đầu tư. Nhà nước đã có những chính sách như giảm giá thuê đất, giá dịch vụ, giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý, bỏ một số phí và lệ phí, đang từng bước tiến tới một chế độ giá, phí chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Bởi vậy cần có những chính sách hỗ trợ về tài chính để doanh nghiệp phát triển hạ tầng vừa hạn chế phần nào rủi ro và quan trọng hơn cả là có điều kiện giảm giá cho các nhà đầu tư muốn thuê đất trong các KCN-KCX.
Một trong những vướng mắc đối với các doanh nghiệp trong KCN là quyền sử dụng đất. Do tính chất thuê lại đất nên nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, chưa an tâm vì sở hữu tài sản trên đất của người khác và do vậy không thể thế chấp tài sản gắn liền trên đất. Luật Đất đai sửa đổi năm 1998 và Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 vừa qua đã mở ra cho các nhà đầu tư trong nước được quyền chuyển nhượng đất trong KCN- KCX, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều này đã góp phần tạo thêm sức hấp dẫn của các KCN-KCX đối với các nhà đầu tư trong nước. Chính vì vậy gần đây,đầu tư trong nước tại các KCN-KCX đã tăng nhanh, nhất là ở tp Hồ Chí Minh và Bình Dương… Tuy nhiên đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả các KCN-KCX có doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh phát triển hạ tầng thì vấn đề này chưa được áp dụng do Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân nước ngoài thuê đất ở Việt Nam quy định nhà đầu tư nước ngoài không có quyền chuển nhượng đất. Thêm vào đó, điều kiện để có thể được thế chấp quyền sử dụng đất là thời gian đã trả tiền thuê đất còn lại phải ít nhất 5 năm, do vậy muốn được thế chấp quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp trong KCN- KCX phải trả tiền thuê đất nhiều năm làm tăng chi phí đầu tư ban đầu.
2.3. Những đánh giá chung về tình hình thu hút FDI vào các KCN - KCX những năm qua.
2.3.1. Những thành công cơ bản ban đầu:
Thành công của hoạt động thu hút FDI vào các KCN - KCX chính là ở chỗ đã bước đầu phát huy tác dụng của mô hình kinh tế mới và rất phức tạp này. Trên phương diện này, có thể chỉ ra những đóng góp của các KCN đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Qua hơn 11 năm phát triển, các KCN - KCX tại Việt Nam đã góp phần hình thành cơ cấu kinh tế phù hợp với các mục tiêu và nội dung của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đưa nền kinh tế của Việt Nam nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
2.3.1.1. Các KCN - KCX đóng góp một phần quan trọng trong giá trị sản
lượng công nghiệp (SLCN) và tổng kim ngạch xuất khẩu (XK)
BẢNG 10: GIÁ TRỊ SLCN VÀ GIÁ TRỊ XK DO CÁC DN - KCN THỰC HIỆN
Đơn vị: Triệu USD
1997 | 1998 | 1999 | 2000 | |
- Giá trị SLCN | 1.155 | 1.871 | 2.982 | 3.555 |
- Giá trị XK | 848 | 1.050 | 1.500 | 2.170 |
Có thể bạn quan tâm!
- Môi Trường Pháp Lý Và Những Ưu Đãi Dành Cho Kcn - Kcx Việt Nam;
- Bức Tranh Chung Về Thu Hút Đầu Tư Vào Kcn - Kcx Ở Việt Nam
- Tình Hình Thu Hút Dự Án Và Vốn Fdi Vào Các Kcn – Kcx
- Bối Cảnh Kinh Tế Vĩ Mô Và Những Định Hướng Cơ Bản Cho Việc Phát Triển Kcn-Kcx:
- Một Số Giải Pháp Cơ Bản Hoàn Thiện Các Khu Công Nghiệp – Khu Chế Xuất Nhằm Tăng Cường Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài:
- Khu công nghiệp, khu chế xuất với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án đầu tư nước ngoài-Bộ Kế hoạch và đầu tư
BẢNG 11: TỶ TRỌNG GIÁ TRỊ SLCN CỦA CÁC DN-KCN TRONG GTSL CẢ NƯỚC
Năm 1999 | Năm 2000 | |
20% | 23% | 25% |
Nguồn: Báo đầu tư số 20 ngày 14/2/2001
BẢNG 12: TỶ TRỌNG GIÁ TRỊ XK CỦA CÁC DN- KCN TRONG TỔNG KIM NGẠCH XK CỦA CẢ NƯỚC
Năm 1999 | Năm 2000 | |
14% | 15% | 16% |
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án đầu tư nước ngoài-Bộ Kế hoạch và đầu tư
Qua số liệu trên cho ta thấy giá trị sản lượng công nghiệp và giá trị kim ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp KCN thực hiện ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp và giá trị xuất khẩu của cả nước. Điều này chứng tỏ các KCN ngày càng đóng góp một vai trò quan trọng hơn trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
2.3.1.2. Tạo việc làm và bảo vệ môi trường
Hiện nay, khu vực có vốn nước ngoài thu hút khoảng 35 vạn lao động, trong đó các KCN - KCX tại Việt Nam đã trực tiếp tạo việc làm cho trên 23 vạn lao động. Phần lớn các lao động sau khi được các doanh nghiệp KCN - KCX tuyển đều được nâng cao tay nghề tại Việt Nam cũng như gửi đi đào tạo tại các nước công nghiệp phát triển. Đây là đội ngũ lao động lành nghề phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ 21.
Trong các KCN - KCX việc phân nhóm các nhà máy được tiến hành một cách có hệ thống, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường công nghiệp. Đây là lợi ích cơ bản và lâu dài với một nước đang phát triển như nước ta. Tại phần lớn các KCN - KCX, các công ty phát triển cơ sở hạ tầng
đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý nước thải công nghiệp. Nước thải của các doanh nghiệp trong KCN - KCX được tập trung thu gom và xử lý tại các nhà máy xử lý này với công nghệ hiện đại, đảm bảo nước thải qua xử lý khi thoát ra hệ thống thoát nước chung, sông ngòi đều đạt được tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam. Việc tập trung xử lý nước thải và chất thải tại các KCN - KCX làm giảm chi phí xử lý, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp tự giác trong việc bảo vệ môi trường. Tại các KCN - KCX, các doanh nghiệp có khả năng gây ô nhiễm môi trường được qui hoạch, tập trung tại một khu vực nhất định, từ đó các công ty phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ quan hữu quan có thể dễ dàng quản lý về môi trường và cùng với các doanh nghiệp tìm ra các giải pháp bảo vệ môi trường hữu hiệu, tiết kiệm được chi phí.
2.3.1.3. Tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thúc đẩy phát triển của khu
vực xung quanh KCN - KCX.
Việc xây dựng sẵn các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN - KCX đã giúp cho các nhà đầu tư thuận lợi khi thuê đất xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh cho mình. Trước tiên là chủ đầu tư không mất thời gian, giảm được chi phí đầu tư từ các khâu chuẩn bị địa điểm, mặt bằng xây dựng, xin phép sử dụng đất, giải toả đền bù cho dân cũng như xây dựng hạ tầng chơ sở khác ( đường giao thông, điện, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải công nghiệp, đảm bảo vệ sinh môi trường v.v...) mà một cơ sở sản xuất ở bên ngoài KCN - KCX bắt buộc phải đầu tư xây dựng. Ngoài ra các doanh nghiệp vào KCN - KCX còn được hưởng một loạt các chính sách miễn giảm thuế, chậm trả tiền thuê đất các chính sách ưu tiên khác áp dụng cho các doanh nghiệp KCN. Trong KCN - KCX có sẵn đại diện của các cơ quan
quản lý nhà nước, các dịch vụ phục vụ tại chỗ giúp doanh nghiệp khỏi mất nhiều thời gian để đến các nơi cần thiết như khi thành lập doanh nghiệp riêng lẻ. Kết quả là tuy chỉ với 35% diện tích đất công nghiệp đã thu hút được 1.441 doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư.
Hơn nữa, các KCN - KCX là một khu vực lý tưởng để đặt nền móng cho bước đi tìm tòi phát triển các mô hình kinh tế năng động hơn, là nơi thực nghiệm các chính sách, cơ chế quản lý tiếp cận dần với thông lệ quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam, Năm 1997, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã áp dụng thí điểm qui trình đăng ký xin Giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư vào KCN - KCX tại Việt Nam, thay thế cho qui trình xin Giấy phép Đầu tư phức tạp và rườm rà. Sau một thời gian áp dụng hiệu quả, vào năm 2000 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã quyết định áp dụng qui trình đăng ký xin Giấy phép Đầu tư cho cả các dự án ngoài KCN - KCX. Trong năm 2000, Tổng cục Hải quan đã áp dụng thí điểm tại KCX Linh Trung (TP HCM) Qui chế Hải quan khai báo một lần. Sau một thời gian thí điểm, Qui chế này đã chứng tỏ tính ưu việt và được các doanh nghiệp tại KCX Linh Trung hoan nghênh. Vào đầu năm 2001, Tổng cục Hải quan đã quyết định áp dụng Qui chế này trên phạm vi toàn quốc.
Ngoài số lao động trực tiếp làm việc cho các doanh nghệp trong KCN
- KCX, hoạt động của các KCN - KCX đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong các ngành sản xuất các linh kiện, dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp KCN
- KCX và việc phát triển, xây dựng mới các KCN - KCX. Tay nghề và trình độ của các cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật được nâng lên và từ đây lan toả ra bên ngoài.
Các KCN - KCX còn tác động đến phát triển các cơ sở sản xuất nguyên liệu, dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp KCN, góp phần nâng cao giá trị nông sản của Việt Nam, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ
tinh, giảm bớt sự tập trung quá cao vào các đô thị lớn hiện có, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Năm 1998 đã có 103 doanh nghiệp trong thị trường nội địa gia công cho Khu chế xuất Tân Thuận, tăng gấp 10 lần so với năm 1997 và có 21 doanh nghiệp trong Khu chế xuất Tân Thuận gia công cho các công nghiệp trong thị trường nội địa với giá trị hơn 10 triệu USD. Việc cung cấp vật tư từ thị trường trong nước vào KCX Tân Thuận tăng với tốc độ nhanh, năm 1998 với 58 mặt hàng trị giá hơn 18 triệu USD.
Hàng năm, thu nhập của các lao động làm việc trong các doanh nghiệp KCN tạo ra sức mua cho xã hội khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ và sản xuát hàng hoá tiêu dùg của đất nước.
Ngoài ra, phát triển KCN - KCX không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã hội mà còn mang ý nghĩa về an ninh quốc phòng. Trong quá trình triển khai thực hiện qui hoạch phát triển KCN, các cơ quan quản lý nhà nước về KCN
- KCX đã phối hợp với Bộ Quốc phòng để có những điều chỉnh cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu quốc phòng, kết hợp xây dựng một số công trình, ngành có tính lưỡng dụng, vừa phục vụ kinh tế trước mắt, nhưng khi cần thiết có thể nhanh chóng chuyển sang phục vụ quốc phòng.
2.3.2. Những hạn chế cơ bản và những vấn đề đặt ra cho việc thu hút nguồn vốn FDI của các KCN-KCX Việt Nam hiện nay:
2.3.2.1. Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN-KCX Việt Nam
quá cao so với các nước trong khu vực:
Một trong những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả KCN-KCX là chi phí xây dựng hạ tầng, bao gồm những khoản chi phí chuẩn bị mặt bằng và xây dựng
hạ tầng và giá trị sản lượng, kể cả xuất khẩu được tạo ra trên 1 ha diện tích của KCN-KCX. (Xin tham khảo số liệu tại bảng 13 dưới đây).
Mặc dù được quy hoạch xây dựng tại những khu vực đô thị và công nghiệp có hệ thống hạ tầng tương đối phát triển nhưng nói chung chi phí xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN-KCX Việt Nam rất cao so với khu vực. Chi phí xây dựng trung bình tính trên một ha diện tích các KCN-KCX Việt Nam đều cao hơn mức của các nước châu Á, trừ vài khu như khu Bataan của Philippin (đã nói ở phần trình bày trên) bị coi là điển hình thất bại của những KCN-KCX do chọn vị trí tại những khu vực biệt lập, đồi núi kinh tế kém phát triển, hầu như chưa có cơ sở hạ tầng trong và ngoài khu. Điều đó cho thấy chi phí ban đầu xây dựng hạ tầng của Việt Nam rất lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí để chuẩn bị mặt bằng cao, bao gồm cả chi phí đền bù đất giải phóng mặt bằng. Ví dụ KCX Tân Thuận và Hải Phòng ngoài khối lượng san lấp mặt bằng trên diện tích 300 ha với chi phí rất lớn còn phải bồi thường giải toả mặt bằng cho dân và các tổ chức kinh tế, xây dựng hệ thống giao thông nội bộ, hệ thống cấp thoát nước, cấp điện, viễn thông và các công trình bảo vệ môi trường như trung tâm xử lý nước thải, cây xanh… Trong đó nhiều khu giá bồi thường giải toả mặt bằng đã bị đẩy lên cao một cách bất hợp lý.
BẢNG 13: CHI PHÍ XÂY DỰNG HẠ TẦNG Ở MỘT SỐ KCN-KCX TRONG KHU VỰC
Tổng vốn đầu tư xây dưnïg hạ tầng (triệu USD) | Bình quân vốn đầu tư xây dựng hạ tầng 1 ha (nghìn USD) | |
Khu Kandla (Aán độ) | 18,0 | 63,5 |
Khu Penang, Mang, (Malaixia) | 10,0 | 20,0 |
Khu Batan, (Philipin) | 208,2 | 602,9 |
28,8 | 35,0 | |
Khu Lat Krabang, (Thái Lan) | 9,8 | 36,0 |
Tân Thuận | 89,0 | 297,0 |
Linh Trung | 14,0 | 233,0 |
Đà Nẵng | 24,0 | 343,0 |
Hà Nội | 30,0 | 300,0 |
Hải phòng | 150,0 | 500,0 |
Nguồn:Vụ Quản lý KCN-KCX – Bộ Kế hoạch Đầu tư
Thêm một nguyên nhân khách quan nữa cũng đáng cân nhắc: Đó là nhiều KCN-KCX của Việt Nam được quy hoạch tại những vùng có vị trí thuận lợi về kinh tế - xã hội và địa lý nhưng về địa chất lại thuộc vùng đất thấp, đất yếu nên chi phí san lấp mặt bằng và chi phí xây dựng trở nên cao hơn so với các nơi khác. Trong khi nhiều KCN-KCX ở Philippin hoặc ngay ở Việt Nam như Đồng Nai, Bình Dương nằm ở vùng đất cao, đất đồi vững chắc thì nhiều nhà máy tại các KCN-KCX khu vực miền Bắc phải chịu chi phí đóng cọc, làm nền móng chiếm tới 30% chi phí xây dựng cơ bản. Điều này không làm ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp FDI nhưng cũng làm nản lòng một số nhà đầu tư mà nhà máy của họ yêu cầu phải có nền móng vững chắc như sản xuất thức ăn gia súc, chế tạo sắt thép… Đó là những nguyên nhân đẩy giá thuê đất và các chi phí xây dựng hạ tầng của các KCN- KCX Việt Nam lên rất cao, làm giảm sức cạnh tranh, kém hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
2.3.2.2. Một trong những khó khăn lớn nhất đặt ra cho các KCN-KCX Việt
Nam hiện nay là thiếu vốn đầu tư xây dựng hạ tầng:
Một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo cho các KCN-KCX hoạt động thành công là có cơ sở hạ tầng chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế để có thể dễ dàng thu hút đầu tư nước ngoài. Ở một số nước, việc xây dựng cơ sở