tranh tụng tại phiên toà; Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; Đánh giá bị cáo có phạm tội không và nếu bị cáo có phạm tội thì phạm tội gì, theo khoản nào, Điều nào của BLHS; Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; Đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có); Hướng giải quyết về xử lý vật chứng (nếu có).
Kết luận trong bản án (quyết định) cuả Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) không phù hợp với các tình tiết thực tế của vụ án thông thường được thể hiện trên 04 (bốn) bình diện sau đây:
a) Kết luận không được khẳng định bởi các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Chẳng hạn như, trong quá trình xét xử ở cấp sơ thẩm, kết quả thẩm vấn công khai và kết quả tranh luận tại phiên tòa thể hiện đầy đủ bản chất của sự việc phạm tội, nhưng Hội đồng xét xử lại dựa trên tài liệu có trong hồ sơ vụ án để kết luận vụ án (Bản án số 08/2015/HSST ngày 12/8/2014 của TAND huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang)
b) Bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự đã không cân nhắc đến các tình tiết, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với chính sách hình sự của nhà nước nói riêng cũng như sự nhìn nhận của các nước bạn đối với chính sách hình sự của nước Việt Nam.Ví dụ như: bản án số 09/2015/HSST ngày 12/3/2012 của TAND huyện BM, tỉnh Hà Giang đối với bị cáo Lý Văn Nguyên, bị cáo Nguyên thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhưng khi áp dụng điều luật để quyết định hình phạt đã không áp dụng chế định giành cho người chưa thành niên phạm tội qui đình tại các điều 18 và Điều 52 BLHS làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
c) Khi có sự mâu thuẫn liên quan trực tiếp đến vấn đề giải quyết vụ án và việc giải quyết mâu thuẫn đó có ý nghĩa quan trọng cơ bản để việc kết luận
trong bản án của Tòa án, khi vụ án còn nhiều mâu thuẫn cần giải quyết, nhưng Tòa án đã không tiến hành giải quyết triệt để, không đưa ra lập luận cho những vấn đề loại trừ những chứng cứ phù hợp và những chứng cứ không phù hợp dẫn đến kết luận theo hướng chủ quan, thừa nhận hoặc phủ nhận một số vấn đề mà không đưa ra cơ sở cho kết luận đó. Chẳng hạn như, bản án số 07/2013/HSST ngày 23/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, lời khai của các bị cáo Hoàng Văn Hùng và Phượng Tà Phin mâu thuẫn nhau về vấn đề ai là người chủ mưu, khởi xướng đối với tội “Cướp tài sản”, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã không làm rõ vấn đề này tại phiên tòa, để cân nhắc mức án cho phù hợp, không có lập luận bác bỏ lời khai không phù hợp và lập luận chấp nhận lời khai phù hợp với các tiết khách quan của vụ án để quyết định mức án đối với các bị cáo, gây bức xúc cho các bị cáo.
d) Những kết luận của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) trong bản án (quyết định) đã không thể hiện đầy đủ và toàn diện bản chất của vụ án.Như vụ Lò Ngọc Hùng, phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 01/2013/HSST ngày 27/3/2013 của TAND huyện QB, tỉnh Hà Giang, trong phần “Xét thấy” đã không nêu tình tiết liền trước thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị người khác đe dọa, cưỡng bức, để làm căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm i khoản 1 Điều 46 BLHS, dẫn đến làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị cáo.
Bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quyền lực của nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, để xác định một người có tội hay không có tội, phải chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt có ý nghĩa chính trị, xã hội rất sâu sắc và trước hết trực tiếp ảnh hưởng tới người bị đưa ra xét xử. Bản án hình sự tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không chỉ có ý nghĩa về mặt đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh mà còn mang tính giáo dục, răn
Có thể bạn quan tâm!
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 2
- Một Số Vấn Đề Lý Luận Chung Về Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
- Các Luận Cứ Về Căn Cứ Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Trong Khoa Học Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 6
- Ý Nghĩa Của Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
- Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Sẽ Góp Phần Không Nhỏ Vào Việc Thực Hiện Tốt Chức Năng Thực Hành Quyền Công Tố Và Kiểm Sát Các Hoạt Động
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
đe, phòng ngừa tội phạm trong xã hội, đồng thời tạo niềm tin của nhân dân vào công lý.
Với ý nghĩa pháp lý nêu trên, bản án hình sự cần phải có nội dung mang tính khoa học pháp lý, văn phong chuẩn xác, thống nhất theo quy định của BLTTHS hiện hành phải thể hiện đầy đủ bản chất của vụ án, giải quyết được những mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng và trong các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
3) Căn cứ thứ 3 – có sự vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hoặc (và pháp luật hình sự)
Từ khi có BLTTHS năm 1988 đến nay, chưa có văn bản nào giải thích một cách rành mạch, phân biệt một cách rõ ràng ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự đánh giá của người có thẩm quyền kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, việc đánh giá này không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người kháng nghị cũng như Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử mà phải căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và xét xử phúc thẩm VAHS trong nhiều năm qua.
Theo qui định tại khoản 1 Điều 33 Qui chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS của VKSND tối cao thì để kháng nghị bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm phải có một trong các căn cứ như: “a. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; b. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án;
c. Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự; d. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” [62. , tr.13], điều đó cho thấy, chỉ được coi là căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS, khi bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự chưa có hiệu
lực pháp luật và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS và các vi phạm này chỉ là những vi phạm của Toà án cấp sơ thẩm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm (bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm), còn các vi phạm của cơ quan điều tra và VKS trong giai đoạn điều tra, truy tố không phải căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, bởi giai đoạn tố tụng sau phải có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của giai đoạn tố tụng trước đó, phát hiện những vi phạm để yêu cầu khắc phục. Chính vì thế, Tòa án cấp sơ thẩm phải có trách nhiệm phát hiện ra những sai lầm của cơ quan điều tra, VKS trước đó nhưng nếu tòa án cấp sơ thẩm không phát hiện ra được mà vẫn xét xử dựa trên sự sai lầm thiếu xót trong quá trình điều tra thì là lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm nên bản án sơ thẩm sẽ bị xét xử phúc thẩm lại. Trong trường hợp bản án (quyết định) của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện sai xót từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử thì sẽ bị kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều 273 BLTTHS:
Bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khi có một trong các căn cứ sau đây: 1. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; 2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; 3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố, xét xử; 4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự. [8. , tr.191]
Những vi phạm thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử của Toà án cấp sơ thẩm tới mức nghiêm trọng phải kháng nghị theo thủ tục phúc phẩm thường là những vi phạm như: Xác định sai người tham gia tố tụng, mỗi người tham gia tố tụng đều có những quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khác nhau. Mọi trường hợp xác định sai tư cách hoặc bỏ sót người tham gia tố
tụng đều dẫn đến hậu quả ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án và không đúng pháp luật; Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án không đúng; Việc giao các quyết định của Toà án không đúng với quy định tại Điều 182 BLTTHS năm 2003; Triệu tập không đầy đủ những người cần triệu tập đến phiên toà để xét hỏi hoặc tuy có triệu tập nhưng người được triệu tập không nhận được giấy triệu tập vì có lý do chính đáng. Còn ở phiên toà, những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường là các trường hợp như: xét xử sai thẩm quyền; Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng với quy định của pháp luật; Bị cáo vắng mắt có lý do chính đáng, nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn xét xử vắng mặt họ ở phiên toà sơ thẩm (vi phạm khoản 1 Điều 187 BLTTHS năm 2003); người bào chữa thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 vắng mặt, nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn xét xử; Người bị hại vắng mặt trong trường hợp sự vắng mặt của họ trở ngại cho việc xác định hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử; Những người tham gia tố tụng khác như: Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định... mà sự vắng mặt của họ trở ngại đến việc xác định sự thật của vụ án; Chủ toạ phiên toà không thực hiện đúng các quy định của BLTTHS năm 2003 tại phiên toà như: Không đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, không xét hỏi những người tham gia tố tụng trong trường hợp lời khai của họ tại cơ quan điều tra mâu thuẫn với lời khai của người khác, nhưng lại căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án, không cho bị cáo nói lời sau cùng, chủ toạ phiên toà không xét hỏi lại giao cho các thành viên khác xét hỏi rồi chủ toạ tóm tắt lại như một lời kết luận v.v…; Biên bản nghị án phản ánh nội dung quyết định của Hội đồng xét xử không đúng với phần quyết định của bản án đã tuyên tại phiên toà.
Tại mục 4.4 Phần I Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về xét xử sơ thẩm VAHS có quy định:
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp Bộ luật Tố tụng Hình sự qui định bắt buộc phải tiến hành hoặc tiến hành thủ tục đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện. [35. , tr.6]
Khái niệm này đã cho thấy bốn đặc điểm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS thông thường là: a) Phải có hành vi không thực hiện những quy định bắt buộc trong BLTTHSnăm 2003, khi tiến hành tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; b) Hoặc có hành vi thực hiện, nhưng thực hiện không đúng theo trình tự, thủ tục đã quy định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; c) Các hành vi trên phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…;
d) Việc bỏ qua hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ thủ tục tố tụng bắt buộc làm cho việc giải quyết vụ án hình sự thiếu khách quan, toàn diện.
Các đặc điểm của vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:
Thứ nhất, không thực hiện những quy định bắt buộc trong BLTTHS khi tiến hành tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
được hiểu là các chủ thể tiến hành tố tụng không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng như, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Các hành vi này phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và phải được điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại. Những vi phạm ngoài phạm vi khái niệm này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục.
Thứ hai, có hành vi thực hiện, nhưng thực hiện không đúng theo trình tự, thủ tục TTHS đã quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được hiểu là các chủ thể tiến hành tố tụng có thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định nhưng bỏ qua một số qui định hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ thủ tục làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện. Trong các vi phạm tố tụng của HĐXX, có những vi phạm chỉ cần căn cứ vào quy định của BLTTHS cũng biết là nghiêm trọng. Ví dụ: thẩm phán tham gia HĐXX là người theo quy định phải từ chối hoặc bị thay đổi. Cũng có những vi phạm phải qua đánh giá mới xác định có nghiêm trọng hay không như việc người làm chứng vắng mặt mà sự vắng mặt của họ sẽ trở ngại cho việc xác định sự thật của vụ án thì việc xét xử vắng mặt người làm chứng là vi phạm nghiêm trọng. Còn sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án thì vi phạm đó không phải là nghiêm trọng; hoặc Cơ quan điều tra vi phạm về thời hạn điều tra, Tòa án vi phạm về thời hạn xét xử, cũng là những vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng; hoặc quá trình lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi mà không mời cha mẹ của người đó tham dự là vi phạm. Nhưng nếu người làm chứng dưới 16 tuổi này chỉ là một trong nhiều người làm chứng khác cùng khai giống nhau về một sự việc thì vi phạm này không ảnh hưởng đến
việc xác định sự thật của vụ án. Còn vụ án chỉ có duy nhất một người làm chứng dưới 16 tuổi thì vi phạm này lại là nghiêm trọng.
Thứ ba, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Việc vi phạm các qui BLTTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng mà xâm phạm đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng ở mức độ nghiêm trọng, dẫn đến quyết định của bản án tuyên ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Như vụ Lê Văn Tùng, phạm tội “Cố ý gây thương tích”, bản án số 23/2014/HSST ngày 16/07/2014 của TAND thành phố Hà Giang, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã không mời luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, sau khi Viện kiểm sát kháng nghị, Tòa cấp phúc thẩm đã tuyên hủy tòan bộ bản án sơ thẩm, giao về cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.
Thứ tư, Việc bỏ qua hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ thủ tục tố tụng bắt buộc làm cho việc giải quyết vụ án hình sự thiếu khách quan, toàn diện. Ví dụ: Đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc bị truy tố ở khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải chỉ định luật sư, nhưng Tòa án đã, bỏ qua không thực hiện là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật TTHS quy định. Đối với việc áp dụng pháp luật hình sự không đúng, thể hiện trong quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các qui định của BLHS và pháp luật hình sự nói chung có liên quan đến vụ án hình sự cụ thể mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét. Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án cấp sơ thẩm có những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến bản