Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 6


án (quyết định) đối với vụ án không nghiêm minh, không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa, thậm chí có trường hợp làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt người phạm tội hoặc quyết định đối với người tham gia tố tụng không đúng pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng không đúng pháp luật hình sự của Toà án cấp sơ thẩm thường thể hiện qua các sai lầm sau:

a) Kết án người không thực hiện hành vi phạm tội (làm oan người vô tội) như một người không thực hiện hành vi phạm tội, mà Toà án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc kết án người đó phạm tội là làm oan người vô tội, sai lầm này có thể do Cơ quan điều tra hoặc VKS trong quá trình điều tra, có thể do Tòa án, việc Viện kiểm sát truy tố không đúng người, đúng tội, nhưng quá trình xét xử, Hội đồng xét xử không căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa để làm căn cứ kết tội bị cáo mà sử dụng chứng cứ trái qui định của pháp luật để làm căn cứ kết án dẫn đến làm oan người vô tội (Chẳng hạn như, vụ án Nguyễn Thanh Chấn ở tỉnh Bắc Giang. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã làm sai lệch hồ sơ vụ án, Tòa án sử dụng các chứng cứ được thu thập trái quy định để kết án oan người vô tội). Có trường hợp, chính người bị kết án oan đã có những hành vi gian dối đánh lừa các cơ quan tiến hành tố tụng, họ không phải là thủ phạm gây án nhưng lại nhận bừa rằng chính mình gây ra vụ án đó như một số trường hợp nhận tội thay cho người phạm tội hoặc vì lý do nào đó mà tự nhận mình là thủ phạm gây án nhưng sau một thời gian, thủ phạm gây án đã ra tự thú hoặc bị Cơ quan điều tra phát hiện v.v... Có trường hợp, lúc đầu cơ quan điều tra mới nghi là thủ phạm gây án và áp dụng biện pháp ngăn chặn (tạm giam), nhưng vì sợ hoặc thậm chí quá sợ nên nhận tội, khi ra toà mới chối tội và lời chối tội này lại có căn cứ, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã không đánh giá đầy đủ các tình tiết khách quan của vụ án nên đã kết án oan bị cáo. Có trường hợp do không phân biệt được tội phạm với các hành


vi vi phạm pháp luật khác, có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đã hình sự hóa quan hệ dân sự, dẫn đến kết án oan người vô tội. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật khác không phải là BLHS nhưng có ý nghĩa quyết định trong việc áp dụng BLHS mà Toà án cấp sơ thẩm đã sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng cũng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

b) Kết án người mà hành vi của họ không cấu thành tội phạm. Hành vi không cấu thành tội phạm là trường hợp người bị kết án có thực hiện hành vi đã gây ra thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội, nhưng theo quy định của pháp luật, thì hành vi của họ không bị xử lý bằng biện pháp hình sự (hành vi không cấu thành tội phạm) như: Gây thiệt hại trong trường hợp không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự; chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng; sự kiện bất ngờ; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; cố ý gây thương tích nhưng tỷ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS; vô ý gây thiệt hại chưa nghiêm trọng đến tài sản; vô ý gây thương tích nhẹ và một số loại tội đòi hỏi người có hành vi phạm tội phải là người đã bị xử lý vi hành chính, xử lý kỷ luật hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc một số hành vi phải gây ra thiệt hại đáng kể (hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại nghiêm trọng) mới bị coi là tội phạm và một số trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.v.v...(chẳng hạn bản án hình sự sơ thẩm số 49/2014/HSST ngày 12/11/2014 của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã có việc hình sự hóa quan hệ dân sự).

c) Kết án người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã thoả mãn với lời khai của người có hành vi phạm tội hoặc giấy tờ xác nhận không chính xác của chính quyền địa phương nên đã khởi tố, truy tố và kết án người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.


d) Toà án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) bỏ lọt tội phạm như bao gồm việc bỏ lọt một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS năm 1999, bỏ lọt hành vi phạm tội và bỏ lọt người phạm tội. Tuy nhiên, chỉ coi là Toà án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm trong trường hợp VKS đã truy tố nhưng Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội, mà việc tuyên bố đó rõ ràng là trái pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm khi VKS không truy tố thì cho dù có kháng cáo hoặc kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không có quyền kết án bị cáo hoặc huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại, mà chỉ có quyền y án sơ thẩm và kiến nghị lên cấp giám đốc thẩm xét lại bản án.

Tại Điều 250 BLTTHS năm 2003 đã quy định về hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại như sau: “1. Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” [8, tr.174], điều đó cho thấy, người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền huỷ bản án sơ thẩm hình sự để Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại theo trình tự sơ thẩm kết án người đó phạm tội. Do đó, nếu VKS đã truy tố một người về một tội quy định tại BLHS năm 1999 nhưng Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố người đó không phạm tội, thì VKS mới có quyền kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 6

Tuy nhiên, nếu một người đã bị khởi tố nhưng trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều tra hoặc VKS đã đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với người đó mà khi xét xử sơ thẩm Toà án cấp sơ thẩm cũng thấy có căn cứ xác định người đó phạm tội thì VKS không được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu tại phiên toà sơ thẩm, qua xét hỏi và tranh luận, VKS thấy việc đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án đối với một người rõ ràng là không đúng


pháp luật và Toà án cấp sơ thẩm không có kiến nghị phục hồi điều tra thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật VKS sẽ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để huỷ bản án sơ thẩm hoặc quyết định phục hồi điều tra để truy tố người mà cơ quan điều tra hoặc VKS đã đình chỉ (nếu việc phục hồi điều tra không ảnh hưởng đến các bị cáo khác trong cùng vụ án).

đ) Sai lầm trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS, người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Ví dụ: Bản án số 09/2010/HSST ngày 18/06/2010 của TAND huyện QB, tỉnh Hà Giang quyết định tuyên bố bị cáo Phàn Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của VKS sửa bản án hình sự sơ thẩm, tuyên bố bị cáo Đ phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

Định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn. Định tội danh đúng không chỉ có ý nghĩa quyết định trong VAHS mà còn góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, vấn đề định tội danh và xác định khung hình phạt trong trường hợp có hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm là một vấn đề phức tạp đang tranh luận trong thực tiễn cũng như trong lý luận khoa học hình sự. Thực tế đã có trường hợp định tội danh không đúng, sai tội danh đồng nghĩa với việc quyết định hình phạt không đúng. Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai, không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để lọt tội phạm.

Kết án sai tội danh là việc Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án quyết định hành vi phạm của bị cáo không đúng với tội phạm mà BLHS quy định và


nó bao gồm cả trường hợp Toà án kết án bị cáo về tội nặng hơn hoặc tội nhẹ hơn với tội mà bị cáo đã thực hiện. Trên thực tế có trường hợp Toà án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội ngang bằng với tội mà bị cáo thực hiện nhưng không đúng với hành vi phạm tội các yếu tố cấu thành tội phạm. Việc kết án sai tội danh tất yếu dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác, nhưng, cũng có trường hợp mức hình phạt đối với bị cáo đã tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và nếu có thay đổi tội danh thì cũng không thay đổi mức hình phạt, như vậy không có nghĩa là Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng, mà việc kết án sai tội danh vẫn là căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, việc kháng nghị phúc thẩm VAHS khi Toà án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc định tội danh cũng phải tuân theo các quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm. Căn cứ vào khoản 3 Điều 249 BLTTHS năm 2003 thì:

Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại [8. , tr.174]

Với quy định trên, trong mọi trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo mà không cần có điều kiện là có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó hay không nhưng nếu Tòa án cấp phúc thẩm muốn sửa án theo hướng bất lợi cho bị cáo thì phải có điều kiện là kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng.


e) Việc áp dụng điều khoản của BLHS hiện hành không đúng, không chỉ bao gồm việc xác định sai điều khoản của điều luật quy định đối với tội tương ứng mà còn bao gồm cả việc áp dụng không đúng các quy định khác của BLHS có liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, chẳng hạn như: Vụ án Phượng Văn Tứ thực hiện hành vi Hiếp dâm bị hại khi bị hại đang ngủ, nhưng khi bị cáo bắt đầu thực hiện hành vi giao cấu thì bị hại phát hiện, bị cáo bỏ chạy, hành vi phạm tội của bị cáo ở giai đoạn chưa đạt, nhưng tại Bản án số 08/2014/HSST ngày 02/07/2014 của Toà án nhân dân huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang đã không áp dụng Điều 18 và khoản 1, 3 Điều 52 BLHS để quyết định mức hình phạt đối với bị cáo Tứ là không có lợi cho bị cáo và trái với qui định của BLHS năm 1999 và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, TAND tối cao, bản án đã bị VKSND tỉnh Hà Giang kháng nghị theo hướng sửa bản án, áp dụng Điều 18 và khoản 1, 3 Điều 52 BLHS để quyết định mức án đối với bị cáo. Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS và phải được phát hiện kháng nghị kịp thời để điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại. Những vi phạm ngoài phạm vi khái niệm này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục. Ví dụ: Vi phạm về thời hạn điều tra vụ án, thời hạn xét xử …cũng là những vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng.

4) Căn cứ thứ tư Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Đối với bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) ngoài cái sai trong áp dụng BLTTHS, BLHS thì còn có cả sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật khác như giải quyết vấn đề dân sự trong hình sự,


việc áp dụng không đúng Pháp lệnh án phí và lệ phí, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng và Nhà nước.

Giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS là nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS được qui định cụ thể tại Điều 28 BLTTHS năm 2003 nên trong quá trình tố tụng, ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tố chức. Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ giai đoạn khởi tố VAHS vấn đề dân sự đã phải là một trong những nội dung cần phải thu thập chứng cứ để chứng minh làm rõ, trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập được của Cơ quan điều tra và trong phạm vi quyết định truy tố của VKS, Tòa án tiến hành xét xử, ra phán quyết những vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự cùng với việc giải quyết những nội dung của trách nhiệm hình sự trong cùng một bản án.Việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo quy định tại chương XXI Bộ luật dân sự, là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại và nó xuất hiện do việc thực hiện tội phạm. Có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây ra thiệt hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm: hành vi phạm tội gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh trách nhiệm hình sự, còn làm phát sinh trách nhiệm dân sự của những người tham gia tố tụng. Hoặc vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như: tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, đòi lại tài sản, đòi bồi thường thiệt hại.


Vấn đề dân sự trong VAHS bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Trường hợp các đương sự không cung cấp được chứng cứ về vấn đề dân sự mà những vấn đề dân sự này có liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải điều tra, làm rõ thiệt hại đã xảy ra, trên cơ sở đó xác định được mức bồi thường thiệt hại, nếu vấn đề dân sự không liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo, mà tại phiên tòa phía yêu cầu không cung cấp được căn cứ cho đề nghị của mình thì Tòa án có thể tách phần dân sự ra để giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự khi có đơn khởi kiện vụ án dân sự mà không đề cấp giải quyết trong VAHS.

Đối với vấn đề dân sự trong VAHS còn bao gồm cả việc áp dụng điều khoản của Bộ luật dân sự và các quy định khác như quyết định mức án phí theo qui định tại Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội không đúng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng hoặc Nhà nước đều là căn cứ để kháng nghị phúc thẩm VAHS. Những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật tới mức VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm VAHS phải là những sai lầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng bồi thường thiệt hại không có căn cứ, tịch thu vật hoặc tiền bạc không đúng với quy định của pháp luật.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2022