ứng tiêu chuẩn thế giới, tiêu chuẩn an toàn, tiêu chuẩn khí thải hay không. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp trong nước, chúng ta cần tổ chức sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISo 9001, ISO 9002… Các doanh nghiệp cũng cần phải đầu tư vào việc nâng cao trình độ công nghệ, đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới…
Tiết kiệm nhiên liệu, bảo vệ môi trường
Việt Nam hiện nay đang áp dụng tiêu chuẩn Euro II cộng với xăng dầu kém chất lượng là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm khí thải. Trong thời gian tới, nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập đồng thời cạnh tranh với các dòng sản phẩm nhập khẩu, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn khí thải Euro III và Euro IV. Dù sớm hay muộn, áp dụng tiêu chuẩn Euro để kiểm soát lượng khí thải là nhiệm vụ cần thiết bởi những ảnh hưởng về môi trường và sức khỏe con người là hết sức to lớn. Để có thể khắc phục được tình trạng này, trong thời gian tới Chính phủ cần có những biện pháp nhằm giảm tối đa hàm lượng lưu huỳnh, sắt, mangan và các chất gây hại môi trường; khuyến khích các nhà chế tạo xe có kế hoạch sản xuất và đưa ra công nghệ động cơ tiên tiến, cùng nhiều kế hoạch thiết thực: áp dụng công nghệ lọc khí thải cho xe chạy xăng ; loại bỏ xe quá niên hạn; truyền thông đi vào lòng nhân dân; phân địa bàn sử dụng nhiên liệu chất lượng cao. Tất cả các loại xăng không chì của Việt Nam bán trên thị trường phải đạt tiêu chuẩn TCVN 6776. Bên cạnh đó, quản lý chất lượng nhiên liệu cho xe cơ giới cần hệ thống luật hợp lý, với những tiêu chuẩn chất lượng cụ thể, đồng thời giám sát chặt chẽ hệ thống phân phối. Cục Đăng kiểm Việt Nam cần xây dựng nhiều chiến lược thiết thực nhằm nâng cao chất lượng xăng dầu cho xe cơ giới tham gia lưu thông. Xây dựng chiến lược nhiên liệu lâu dài, có lộ trình nâng cao tiêu chuẩn nhiên liệu và phụ thuộc lộ trình tiêu chuẩn khí thải; tiêu chuẩn môi trường và hội nhập kinh tế (WTO, AFTA, TBT…). Đẩy mạnh hoạt động Monitoring xăng dầu: lấy mẫu phân tích, thanh
tra, quản lý thị trường. Xây dựng những chế tài mạnh với nhiên liệu “dơ bẩn”, những hành động gian lận trong kinh doanh xăng dầu, đồng thời có chính sách ưu đãi với những nhiên liệu tốt, sạch, mới nhằm bảo vệ môi trường cho toàn thể nhân dân, đặc biệt các chủ phương tiện các lái xe.
Ngoài ra, hiện nay trên thế giới dòng xe Hybrid với ưu điểm tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện với môi trường đang dần chiếm lĩnh thị trường, để có thể thích ứng với xu hướng này, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm về chuyển giao công nghệ, đầu tư nguồn vốn thích đáng.
3.2.1.3 Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý
Để giúp cho các doanh nghiệp có khả năng thích ứng dần với môi trường cạnh tranh, Nhà nước cần có các chế độ ưu đãi đầu tư hợp lý, cụ thể như:
Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính để các doanh nghiệp sản xuất ô tô, phụ tùng linh kiện có thể thuê đất, xem xét giảm giá, thậm chí có thể miễn tiền thuê đất trong vòng từ 2 đến 5 năm đối với các dự án trọng điểm.
Có thể bạn quan tâm!
- Điểm Mạnh, Điểm Yếu Của Ngành Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam Trong Quá Trình Thích Ứng
- Dự Báo Về Thị Trường Ô Tô Năm 2008, Triển Vọng Những Năm Tới Và Định Hướng Phát Triển Cho Ngành Công Nghiệp Ôtô Việt Nam
- Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Khả Năng Thích Ứng Của Ngành Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam Trong Tiến Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Khả năng thích ứng của ngành công nghịêp ô tô Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - 13
- Khả năng thích ứng của ngành công nghịêp ô tô Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - 14
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô về chi phí giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ban đầu (điện, nước, thông tin liên lạc…). Điều này có thể giúp doanh nghiệp triển khai nhanh các hạng mục đầu tư, trong thời gian ngắn nhất có thể đi vào tiến hành sản xuất.
Có chính sách cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp này đầu tư sản xuất cho ra đời những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phù hợp với điều kiện Việt Nam, kích thích các ngành công nghiệp khác cùng phát triển.
3.2.1.4 Cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng
Áp dụng các tiêu chuẩn khí thải Euro ngoài việc cần phải cải thiện nguồn nhiên liệu còn phải đáp ứng được tiêu chuẩn về hệ thống đường sá chất lượng tốt. Trong khi đó tính đến năm 2000, Việt Nam có tổng cộng 210,447 km đường giao thông bao gồm 169,005 km đường nông thôn, hầu hết đều
trong tình trạng kém chất lượng. Thêm vào đó, trong khi trên thế giới tỷ lệ diện tích phục vụ giao thông tĩnh như gara, bãi đỗ xe… ở các đô thị khoảng 7% thì ở nước ta chỉ có 0,7%. Sự tăng trưởng nhanh trong thu nhập của người tiêu dùng tạo ra nhu cầu cao về mặt hàng xa xỉ ô tô, gây nên tình trạng tắc nghẽn giao thông, tai nạn, ô nhiễm môi trường đặc biệt là ở hai thành phố lớn Hà Nội Và TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên các biện pháp tạm thời và không dự tính trước thường đem lại hiệu quả ngược. Một sự phối hợp hài hoà giữa các chính sách ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần được thực hiện để giải quyết những tồn tại này. Trong ngắn hạn, các biện pháp như đảm bảo việc tuân thủ chặt chẽ pháp luật giao thông, quản lý luồng chảy giao thông tốt hơn, năng động hoá đội ngũ cảnh sát giao thông cần được thực hiện. Về mặt trung hạn, các công việc như xây dựng nhiều tuyến xe buýt hơn, mở rộng các tuyến phố chính, nâng cấp ngã tư là cần thiết. Trong dài hạn, cơ sở hạ tầng giao thông như cầu, đường hầm, đường cao tốc mới, đường vòng, xe điện ngầm cần được xây dựng. Để thực hiện tốt các chính sách này, Việt Nam cần có một bản quy hoạch giao thông thật tốt.
Một khi cơ sở hạ tầng giao thông tốt thì nó sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong dài hạn.
3.2.1.5 Xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Con người luôn là chủ thể chính trong mọi hoạt động. Ngày nay, con người có trí tuệ, có tài tổ chức quyết định sự thắng thế trong cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi sản phẩm. Vì vậy, việc đào tào nguồn nhân lực có chất lượng cao là một trong những điều kiện cơ bản để phát triển các ngành kinh tế trong đó có ngành công nghiệp ô tô.
Công nghiệp ô tô luôn tiếp cận với những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất trong các lĩnh vực điện tử, tự động hoá, nhiên liệu…đòi hỏi cán bộ trong ngành phải được trang bị, cập nhật kiến thức mới để tiếp thu công nghệ mới và tự đổi mới nâng cao trình độ. Trong lĩnh vực sản xuất và
lắp ráp ô tô của Việt Nam hiện nay đã bộc lộ sự thiếu hụt về số lượng và cả chất lượng đội ngũ quản lý, công nhân kỹ thuật.
Để đào tạo nguồn nhân lực đông đảo, có trình độ học vấn và kỹ năng nghiên cứu cao, Chính phủ cần cân đối nguồn nhân lực theo trình độ, tránh tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, cân đối theo giới tính và ngành nghề. Để đáp ứng yêu cầu trên, cần có sự phối hợp giữa các Bộ, Ban, Ngành trong lĩnh vực đào tạo về các mặt: các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu, chương trình đào tạo… Các Bộ, Ban, Ngành liên quan cần có kế hoạch đào tạo lại lực lượng cán bộ kỹ thuật hiện có cho phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới.
3.2.1.6 Xây dựng chiến lược định vị Việt Nam trong mạng lưới sản xuất Đông Á
Ngành công nghiệp ô tô Đông Á được nhìn nhận như là một nhà máy sản xuất lớn, trong đó mỗi quốc gia đóng một vai trò nhất định và đóng góp vào “chuỗi giá trị”. Trong khu vực này, việc nâng cao năng lực công nghiệp một cách độc lập với các quốc gia láng giềng là một việc không thực tiễn và không hiệu quả. Trung Quốc và ASEAN4 vừa là đối thủ vừa là đối tác tiềm năng trong sản xuất. Việt nam không nên cạnh tranh trực tiếp với các quốc gia này trong những ngành mà họ đã khẳng định ưu thế vượt trội. Thay vào đó, Việt Nam nên phân tích lợi thế so sánh động của mình, xây dựng tích tụ công nghiệp xoay quanh lợi thế này, và tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực để bổ sung và nâng cao năng lực của các quốc gia khác. Khi Việt Nam lớn mạnh, năng lực sản xuất Đông Á với tư cách là một nhà máy của thế giới cũng sẽ được mạnh thêm.
Do đó, những biện pháp nhằm định vị ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong mạng lưới sản xuất khu vực trong thời gian tới đó là:
Thứ nhất, Việt Nam nên trở thành một cơ sở xuất khẩu cho một số loại linh phụ kiện. Việc sản xuất nên ở mức độ quy mô lớn và ban đầu thực hiện xuất khẩu 100% bởi vì cầu về linh phụ kiện nội địa hiện tại quá nhỏ. Tuy
nhiên, sau một thời gian, linh phụ kiện cũng có thể cung cấp cho thị trường nội địa khi mà thị trường nội địa được mở rộng.
Thứ hai, Việt Nam nên lắp ráp một số chủng loại xe mà nhà máy mẹ ở Thái Lan hay ở nơi khác không sản xuất, đặc biệt là những loại xe đòi hỏi việc sản xuất trên dây chuyền nhỏ và sự thay đổi thường xuyên do đầu cơ (bởi vì ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang phát triển trong những điều kiện như vậy). Các công ty đa quốc gia sẽ quyết định việc lắp ráp chủng loại nào ở Việt nam nhưng chính phủ Việt nam có thể chủ động khuyến khích và cộng tác với các công ty đa quốc gia để xúc tiến công việc này.
3.2.2 Nhóm giải pháp vi mô
3.2.2.1 Nâng cao trình độ công nghệ
Hiện nay, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước còn lạc hậu, các liên doanh mặc dù được chuyển giao công nghệ từ các công ty mẹ ở nước ngoài nhưng đều là những công nghệ cũ. Vì thế, để tránh nguy cơ tụt hậu trong khi hội nhập cần có sự đầu tư mạnh về nguồn vốn để phát triển công nghệ bằng các giải pháp như: trích 2-5% doanh số bán ra cho nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sản phẩm; hình thành các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ bao gồm tài liệu thiết kế, các bí quyết về công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới; ưu tiên nguồn việc trợ nước ngoài cho phát triển khoa học công nghệ.
Được đầu tư kịp thời, cùng với các chính sách bảo hộ hợp lý, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể thích ứng và có khả năng cạnh tranh khi hội nhập hoàn toàn vào khu vực cũng như thế giới.
3.2.2.2 Liên kết, sáp nhập các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô
Trên thị trường ô tô thế giới trong thời gian vừa qua, xu hướng sáp nhập các hãng ô tô lớn phát triển rất rầm rộ. Mặc dù hoạt động mua bán - sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển, nhưng thực tế đã chứng minh chúng ta hoàn toàn có thể tham gia một cách chủ động vào xu thế này thông
qua các thương vụ mua bán - sáp nhập trong các lĩnh vực khác thời gian vừa qua. Nhắc đến mua bán - sáp nhập, chúng ta thường nghĩ đến việc các doanh nghiệp Việt Nam bị các doanh nghiệp nước ngoài "thâu tóm", tuy nhiên thực tế sáp nhập không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, mà ngay chính trong một nước sáp nhập cũng diễn ra ở các doanh nghiệp cũng ngành nghề. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Các nhà sản xuất có vốn đầu tư nhỏ và công suất thấp nên xem xét việc sáp nhập hay liên kết với nhau tạo ra sự chuyên môn hoá trong sản xuất. Nếu việc hợp tác được tiến hành giữa các doanh nghiệp thì việc chia sẻ đầu tư các yếu tố đầu vào như lao động, máy móc, nhà xưởng, phụ tùng, linh kiện…sẽ giảm rất nhiều gánh nặng cho doanh nghiệp và năng lực sản xuất của các thành viên cũng có thể đáp ứng được các đơn hang lớn hơn. Ngoài ra xét dưới góc độ tổng thể nền kinh tế, liên kết kinh doanh cả đầu vào, đầu ra cũng như liên kết ngành sẽ làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển, tăng khả năng cạnh tranh cho các mặt hàng ô tô Việt Nam.
3.2.2.3 Hoàn thiện mạng lưới bán hàng và hệ thống phân phối
Từ xưa đến nay, các nhà sản xuất ô tô Việt Nam thường bán các sản phẩm của mình thông qua một hệ thống đại lý riêng của mình, tuy nhiên trên thế giới hiện nay, xu hướng phân phối ô tô của mình qua kênh phân phối rộng lớn (mega-dealerships), tức là trưng bày và bán tập trung nhiều sản phẩm ô tô của nhiều hãng khác nhau. Ngay khi thiết lập được các trung tâm này, nhiều sản phẩm ô tô của các hãng được bày bán cùng nhau, sự cạnh tranh sẽ gia tăng bởi vì khách hàng có cơ hội để so sánh các mẫu xe của các hãng được bày bán. Do đó quyết định của người tiêu dùng sẽ dựa vào những tính năng của sản phẩm chứ không phải dựa vào các chiến thuật bán hàng của từng hãng.
3.2.2.4 Cải thiện chất lượng dịch vụ sau bán hàng
Chế độ hậu mãi hấp dẫn cũng là một trong những yếu tố thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp. Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam trong thời gian qua hầu hết đã thực hiện tốt các chế độ hậu mãi: bảo hành sản phẩm trong thời gian một năm hay theo số km đường nhất định, trong thời gian bảo hành được bảo dưỡng xe miễn phí, mua phụ tùng thay thế với giá ưu đãi, khuyến mãi một số đồ trang trí nội thất xe… Tuy nhiên, do mặt hàng ô tô là mặt hàng sử dụng mang tính chất lâu bền, giá trị cao, nên bên cạnh các chế độ hậu mãi, chúng ta cần mở rộng và nâng cấp hệ thống sửa chữa. Do đó, cùng với việc tăng lượng xe bán ra, các doanh nghiệp cũng cần phải tính đến việc phải xây dựng các xưởng sửa chữa xe với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về dịch vụ sửa chữa của khách hàng. Các xưởng sửa chữa nên đặt ở những vị trí có điều kiện giao thông thuận lợi, tiện cho khách hàng trong việc di chuyển.
3.2.2.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Tại Việt Nam, những sự yếu kém trong các ngành công nghiệp đều đổ lỗi cho nguyên nhân thiếu hụt về nguồn tài chính dùng cho đầu tư thiết bị công nghệ. Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp ở Nhật Bản thì cho rằng nguồn nhân lực có chất lượng cao trong các ngành công nghiệp lại có vai trò quan trọng hơn nhiều so với thiết bị công nghệ cao (Theo báo cáo diễn đàn phát triển Việt Nam, 2006). Nguồn nhân lực chất lượng cao là một yếu tố cần thiết trong việc nâng cao năng lực sản xuất so với mức độ mà các doanh nghiệp của Thái Lan và Malaysia cũng như để đối phó một cách hiệu quả với những thử thách từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
Các doanh nghiệp nên chú trọng đào tạo các kỹ sư, công nhân có trình độ tay nghề vững vàng; đồng thời có chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ từ những kiến thức cơ bản đến những kiến thức chuyên ngành, tránh tình trạng đào tạo tràn lan, vừa tốn tiền vừa không hiệu quả. Các doanh nghiệp phải có
chính sách tuyển người hợp lý và thực hịên theo công thức 4Đ: Đào tạo, Đào tạo và nâng cao, Đào tạo lại và Đào thải để lựa chọn những người có khả năng về nghiệp vụ kinh doanh, phục vụ mục tiêu chung là nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Để tuyển chọn được đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, có kiến thức, nắm bắt được các bí quyết công nghệ hiện đại, có khả năng sáng tạo, thì một biện pháp rất hữu hiệu đấy chính là cấp học bổng cho sinh viên giỏi ở các trường đại học khối kỹ thuật, kinh tế. Trước mắt đây có thể là một khoản đầu tư không nhỏ, nhưng hiệu quả của nó mang lại thì rất lớn. Vì khi cấp học bổng, các doanh nghiệp nên có một số rang buộc như khi tốt nghiệp thì sẽ làm việc cho doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác định.
Đối với đội ngũ cán bộ hiện tại, doanh nghiệp cần có những chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao tay nghề, cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu công nghệ mới, hiện đại, thêm vào đó có thể tổ chức những cuộc thi tay nghề, nâng cấp bậc cho nhân viên… Ngoài ra, để có thể thu hút được nhân viên giỏi, các doanh nghiệp nên đầu tư hơn nhiều vào quỹ lương, mức lương hấp dẫn cũng là một yếu tố quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc thu hút nhân tài.
3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng thích ứng của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
Để ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển hơn để thích ứng với ngành công nghiệp ô tô thế giới và có thể trụ lại được trên thương trường quốc tế khốc liệt khi hội nhập, vai trò của các Bộ, Ban, Ngành trong việc ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển là rất quan trọng. Bên cạnh các giải pháp từ phía Nhà nước và Doanh nghiệp ở phần trên, luận văn còn muốn đưa ra một số đề xuất kiến nghị cho từng Bộ, Ban, Ngành cụ thể có liên quan.