Năng Lực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Việt Nam Thời Gian Qua‌


Chương 2: Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thời gian qua‌

2.1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại, đại diện cho xu thế này chính là việc các quốc gia tiến hành mở cửa nền kinh tế và thực hiện tự do hoá thương mại. Khác với hầu hết các quốc gia trên thế giới, nước ta không tiếp cận ngay tự do hóa thương mại trên cơ sở đa phương (trong khuôn khổ WTO) mà bắt đầu xúc tiến hội nhập từ các thỏa thuận khu vực với mục tiêu từng bước mở rộng hội nhập toàn diện với nền kinh tế thế giới. Nước ta sẽ được hưởng lợi nếu như các ngành kinh tế trong nước thiết lập được những liên kết chặt chẽ với các ngành công nghiệp của các nước khác trong khu vực trên cơ sở phân công lao động, chuyên môn hoá và thúc đẩy xuất khẩu ngoài khối. Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng và trở thành bộ phận không thể tách rời của kinh tế thế giới, đồng thời đã thực sự trở thành một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao và thương mại đầu tư với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước chủ động tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực như:

- 25/7/1995, Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và từ 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); năm 1995 Việt Nam cũng đã ký Hiệp định khung với EU.


- Từ tháng 3/1996 tham gia với tư cách là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).

- Tháng 11/1998 được công nhận là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

- Tháng 7/2000 Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết và đã có hiệu lực từ ngày 10/12/2001.

- Ngày 07/11/2007 Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập thực sự của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế. Điều đó cũng cho thấy trong hơn hai mươi năm đổi mới, mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng và Chính phủ đã đưa nền kinh tế Việt Nam đi đúng hướng. Đất nước ta đã thu được những lợi ích to lớn từ thị trường quốc tế, từ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đến mở rộng quy mô nền kinh tế trong nước, nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị trí của Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới. So với năm 1986, kinh tế Việt Nam hiện nay đã thay đổi rất nhiều, được thế giới đánh giá cao và coi đây là bài học kinh nghiệm cho nhiều nước đang phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua được thực hiện theo quan điểm hội nhập đa tuyến. Quan điểm này đã giúp Việt Nam chủ động hơn trong quá trình hội nhập, tránh những rủi ro không cần thiết trong khi hội nhập, tận dụng những lợi thế trong nước và thế giới trong từng giai đoạn, đồng thời mở rộng và đa dạng hoá được các mối quan hệ kinh tế với các nước và khu vực, giành được những thành tựu to lớn như hiện nay. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và độ mở của nền kinh tế ngày

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.


càng lớn. Tuy nhiên, gia nhập WTO không phải là điểm kết thúc của một quá trình, mà ở nhiều phương diện, nó chỉ là bước đầu tiên trên cả một con đường dài của Việt Nam. Gánh nặng vẫn đang nằm ở phía trước. Để có thể tồn tại trong một môi trường quốc tế cạnh tranh khốc liệt, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách.

Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển - 4

Gần đây nhất, ngày 18/3/2008, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Trung tâm phát triển Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và được tiếp nhận những đánh giá rất tích cực từ các quốc gia thuộc tổ chức OECD. Việc trở thành thành viên của Trung tâm phát triển OECD - nơi mà trước kia Việt Nam chỉ đến với một vai trò là nước tiếp nhận viện trợ, một nước chậm phát triển để được hưởng những hỗ trợ phát triển chính thức từ các quốc gia phát triển là thành viên của tổ chức OECD cho thấy sự khác biệt hiện nay về vị thế của chúng ta. Điều đó cho thấy: rõ ràng Việt Nam đang là tiêu điểm của các nhà hoạch định chính sách trên thế giới cũng như của chính bản thân các khu vực doanh nghiệp từ các nước khác nhau trên thế giới. Việt Nam cũng đang được kỳ vọng bằng những kinh nghiệm, thực tiễn của mình trong chính sách cải cách và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại những giá trị cụ thể cho không chỉ đối với các nước đang phát triển trong việc hoạch định chính sách của mình mà mang lại cả sức sống mới cho những khuôn khổ hợp tác giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển.

Ngoài ra, Việt Nam còn được bầu là uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Trong khuôn khổ WTO, Việt Nam đã tiến hành đàm phán với một số đối tác để giải quyết các quyền lợi thương mại. Cụ thể là ký thoả thuận kết thúc đàm phán gia nhập với Nga, Ucraina với các điều khoản công nhận nền kinh tế thị trường lẫn nhau, bên


cạnh các cam kết về mở cửa thị trường cho các mặt hàng Việt Nam quan tâm. Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các Ủy ban đàm phán và cùng các thành viên đóng góp vào nội dung các văn kiện của Vòng đàm phán DOHA.

Rõ ràng, việc Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế và các tổ chức tài chính thế giới đã cho thấy, sự hội nhập của chúng ta không còn chỉ dừng lại ở trong những phần chính sách hoặc trong một góc độ khuôn khổ riêng biệt nào nữa. Đó là sự hội nhập mang tính chủ động và có tầm nhìn dài hạn và đang được thực hiện theo đúng lộ trình của chúng ta, như chúng ta mong muốn. Thông qua việc hội nhập này, Việt Nam từng bước khẳng định được vị thế, vai trò đang ngày càng nổi lên như một thành viên rất tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng kinh tế quốc tế. Rõ ràng đường lối chủ động hội nhập kinh tế thế giới của chúng ta đang mang lại những đóng góp tích cực cho nền kinh tế của đất nước trong quá trình phát triển.

Trong thời gian qua đã chứng kiến những chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta, nổi bật lên là tăng trưởng mạnh mẽ trong đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt từ 7 đến 8%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân từ 15-20%/ năm liên tục trong 22 năm qua. Những thành quả đạt được góp phần giúp nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng cao và ổn định, tốc độ bình quân trong 5 năm 2001-2005 đạt 7,5%, 8,2% trong năm 2006 và 8,5% trong năm 2007, đứng thứ hai thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu tăng trưởng liên tục ở mức hai con số và hiện chiếm xấp xỉ 68% GDP đưa Việt Nam vào diện các nước có nền kinh tế mở. "Độ mở" của nền kinh tế Việt Nam rất rộng, thậm chí vượt xa hơn cả một số nước phát triển. Độ mở ấy thể hiện ở tỷ trọng xuất


nhập khẩu trên GDP rất cao. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 của Việt Nam tương đương 150% GDP, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 48,4 tỷ USD tăng 21,5% so với năm 2006. Rất nhiều mặt hàng công nghiệp của Việt Nam như may mặc, giày dép, đồ gỗ, đồ nhựa... đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Điều này càng cho thấy, Việt Nam đã hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của kinh tế thế giới vớ tư cách là một nhà xuất khẩu lớn nhiều mặt hàng.

Đến nay đã có trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có doanh nghiệp đầu tư đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với số vốn đăng ký khoảng 100 tỷ USD và hầu hết đều thành công. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm 17% GDP, 45% giá trị sản xuất công nghiệp, 60% giá trị xuất khẩu. Trong năm 2006, môi trường đầu tư của Việt Nam tiếp tục có những chuyển biến tích cực với việc ban hành thực thi có hiệu quả các luật kinh tế quan trọng cùng với việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14, gia nhập WTO đã tạo điều kiện để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài với mức kỷ lục, vượt ngưỡng 10 tỷ USD, mức cao nhất trong vòng 10 năm qua và gấp đôi mức bình quân của 5 năm trước.

Việt Nam đang tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và có vai trò ngày càng quan trọng trong khối ASEAN. Việc Việt Nam tham gia ASEAN là một trong những hoạt động đối ngoại có tính đột phá của tiến trình triển khai đường lối đối ngoại Đổi mới - đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Mặc dù tham gia muộn và với trình độ phát triển kinh tế thấp hơn nhiều so với đa số các thành viên khác, Việt Nam, về cơ bản, đã rất tích cực và nghiêm túc thực hiện các cam kết về hợp tác, tự do hoá kinh tế - thương mại của Hiệp hội, đồng thời


tham gia vào các tiến trình đàm phán, thiết lập các thể chế liên kết, tự do hoá kinh tế chung của ASEAN với các đối tác. Kể từ khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam luôn tích cực trong việc xây dựng đoàn kết và tăng cường thống nhất trong khu vực. Việt Nam đã đóng góp cho việc thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên của hiệp hội trong việc thực hiện Sáng kiến liên kết ASEAN, phát triển khu vực Tiểu vùng Mê Công mở rộng và Hành lang kinh tế Đông Tây. "Sự phát triển nhanh chóng của Việt Nam trong 12 năm qua, cả về vị thế trên thế giới và sức mạnh, là một đóng góp đáng kể cho ASEAN, một cộng đồng với hơn 505 triệu dân. Việt Nam sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trọng đại cũng như trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực"

Tham gia vào các thoả thuận tự do hoá khu vực ASEAN cho phép Việt Nam được hưởng sự đối xử đặc biệt về thời gian và phạm vi tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, Việt Nam không chỉ tiếp cận trên cơ sở khu vực mà thực hiện trên cơ sở song phương hoặc dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Thực tế là một số thoả thuận song phương với các đối tác lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ đã mang lại những lợi ích thương mại thiết thực cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực trên, chúng ta cũng đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt thương mại tăng kỷ lục so với các năm trước, riêng trong năm 2007 là 12.4 tỷ USD, gấp 2.5 lần so với năm 2006. Đứng trước xu thế liên kết thương mại khu vực và song phương, tuy Việt Nam đã thiết lập được hàng loạt các liên kết với nhiều đối tác thương mại quan trọng, góp phần tạo ra động lực để chuyển đối cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng tập trung khai thác các mặt hàng có định hướng và thế mạnh xuất khẩu nhưng cơ cấu xuất khẩu của nước ta vẫn chủ yếu dựa trên các nông sản


chưa chế biến, khoáng sản và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, hoá mỹ phẩm. Đây là những mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng thấp, giá cả không ổn định và khó mang đến một lợi ích bền vững và làm đà cho sự tăng trưởng. Hơn nữa, việc mở rộng thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị cạnh tranh gay gắt, Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.

Trong điều kiện đó, nước ta không thể mở rộng các liên kết song phương một cách ồ ạt như một số quốc gia trong khu vực có điều kiện hơn đang thực hiện. Trong hiệp định hợp tác chung của ASEAN với các bên đối tác như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, nhiều điều khoản linh hoạt và đối xử đặc biệt là khác biệt dành cho Việt Nam và các nước thành viên mới của ASEAN. Sẽ thích hợp hơn nếu như nước ta tận dụng các ưu đãi này để tìm đến một giải pháp “song phương trong đa phương”, giúp bảo đảm các lợi ích bền vững, lâu dài của Việt Nam trong quan hệ thương mại với các bên ngoài khối.

Một vấn đề vô cùng quan trọng khi Việt Nam tiến hành quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là vấn đề "giữ vững đường lối phát triển của đất nước". Thực tế cho thấy tuy Việt Nam đã hội nhập ngày càng nhanh và sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, nhưng không vì thế mà chúng ta đánh mất đi tính độc lập tự chủ của mình, hơn nữa còn khẳng định được vị thế ngày càng lớn mạnh trên trường quốc tế, tiếng nói của Việt Nam cũng từng bước được đánh giá cao hơn.Tuy nhiên, trong quan hệ với các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như với các quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi


định hướng, mục đích phát triển. Chính vì vậy đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, quyết tâm đi theo con đường mình đã chọn, tránh bị phụ thuộc về kinh tế vào các nền kinh tế lớn, "hội nhập nhưng vẫn phải giữ vững được độc lập chủ quyền và bản sắc riêng của mình".‌

Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập rất tích cực và có hiệu quả vào nền kinh tế quốc tế, vì vậy đã tạo ra một môi trường kinh doanh vô cùng thuận lợi cũng như đặt ra không ít thách thức cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Vấn đề là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tận dụng được những lợi ích to lớn từ tiến trình này và khắc phục được những khó khăn, trở ngại để tồn tại và đứng vững được trên thị trường quốc tế hay không, điều đó thực sự phụ thuộc rất lớn vào "năng lực hội nhập" của chính bản thân doanh nghiệp.


2.2. Thực trạng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

2.2.1. Năng lực cạnh tranh

2.2.1.1. Lợi thế cạnh tranh

a. Lợi thế về sản phẩm, dịch vụ


Không thể phủ nhận năng suất - chất lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt. Nếu như chỉ cách đây khoảng 20 năm, hàng Việt Nam sản xuất ra không đủ phân phối và tiêu dùng, thì ngày hôm nay có thể nói hàng hóa sản xuất trong nước đã có mặt ở khắp các vùng trên đất nước và nhiều nơi trên thế giới, đa dạng cả về số lượng và chủng loại. Một số loại sản phẩm do các doanh nghiệ vừa và nhỏ sản xuất như: quạt điện,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/05/2022