Một là : Về công tác tổ chức kế toán quản trị
Mặc dù đã nhận thức được vai trò của KTQT trong việc tư vấn giúp nhà quản trị ra quyết định. Tuy nhiên, công ty chưa tổ chức được bộ phận KTQT khoa học. Các công việc kế toán quản trị đóng vai trò phụ, chủ yếu được thực hiện song song với kế toán tài chính và do cùng một số nhân viên kế toán phụ tránh kiêm nhiệm. Việc lập kế hoạch về doanh thu, chi phí không phải do phòng kế toán đảm nhiệm mà do phòng Kế hoạch tổng hợp phụ trách nên còn sơ sài chung chung.
Kết quả khảo sát và phỏng vấn trực tiếp những người đang làm công tác kế toán tài chính, nhà quản trị cho thấy nhu cầu cung cấp thông tin phục vụ quản lý rất cần thiết nhưng thực tế trong công ty, phần kế toán tài chính là phần được chú trọng duy nhất mặc dù các yêu cầu về cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị luôn được đặt ra. Xảy ra tình trạng này là do hệ thống kế toán doanh nghiệp hiện nay vận hành theo chế độ kế toán thống nhất do nhà nước ban hành và chế độ kế toán hiện nay tập trung chủ yếu vào nội dung kế toán tài chính.
Hai là:Về nhận diện phân loại nội dung doanh thu chi phí kết quả kinh doanh tại công ty:
Việc nhận diện xác định nội dung phạm vi các khoản chi phí doanh thu kết quả kinh doanh tại công ty chưa đảm bảo tính hợp lý và thống nhất, có nhiều khoản chi phí, doanh thu chưa được xác định và phân loại đúng nội dung và phạm vi . Điều đó tất yếu sẽ xảy ra tình huống các thông tin về chi phí doanh thu kết quả kinh doanh không chính xác đúng với thực tế làm ảnh hưởng sai lệch nghiêm trọng đến các quyết định kinh doanh, quyết định quản lý của các nhà quản trị.
Hiện nay việc nhận diện và phân loại chi phí, doanh thu, kết quả kinh doanh tại công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh mới chỉ hướng tới việc phục vụ cho công tác kế toán tài chính, chưa đáp ứng được yêu cầu của kế toán quản trị.
Ba là: Về việc xây dựng lập dự toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh:
Hiện nay, tại công ty chưa thực hiện việc xây dựng định mức, lập dự toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh. Công ty mới chỉ tiến hành xây dựng “Dự toán kế hoạch tiêu thụ và sản xuất” cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Công tác xây dựng “Dự toán kế hoạch tiêu thụ và sản xuất” ở công ty mới chỉ đáp ứng được yêu cầu của công tác KTTC, chưa đáp ứng được yêu cầu của KTQT. ““Dự toán kế hoạch tiêu thụ và sản xuất” chưa đầy đủ và đồng bộ, mặc dù thực tế có
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Tổ Chức Quản Lý Tại Công Ty Tnhh Sản Xuất Và Thương Mại Việt Anh.
- Nhận Diện Phân Loại Doanh Thu, Chi Phí Và Kết Quả Kinh Doanh Tại Công Ty
- Báo Cáo Kế Toán Quản Trị Doanh Thu, Chi Phí Và Kết Quả Kinh Doanh.
- Giải Pháp Về Lập Dự Toán Doanh Thu Chi Phí Kết Quả Kinh Doanh:
- Kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại Việt Anh - 12
- Kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại Việt Anh - 13
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
rất ít công ty có được hệ thống định mức, lập dự toán doanh thu, chi phí tiêu chuẩn hoàn thiện.
Công ty tuy rằng đã có xây dựng định mức và lập dự toán về sản xuất kinh doanh nhưng chưa tiến hành xây dựng định mức và lập dự toán về chi phí quản lý kinh doanh.
Bốn là: Về việc thu thập và phân tích thông tin kế toán quản trị
Công tác thu thập thông tin chủ yếu dựa vào các nguồn thông tin sổ sách kế toán, báo cáo kế toán từ góc độ kế toán tài chính, chưa có nguồn thông tin đáng kể nào từ kế toán quản trị các năm trước. Công tác phân tích và đánh giá còn rất đơn giản với các dạng so sánh chung nhất về khoản mục doanh thu, chi phí và KQKD giữa thực hiện và kế hoạch. Tình hình thực hiện chi phí và KQKD tại công ty không được cập nhật và lập thành báo cáo do vậy việc đánh giá và phân tích để ra quyết định hạn chế. Bên cạnh đó, việc phân tích các nhân tố gây biến động chi phí, kết quả kinh doanh còn thiếu; phân tích thông tin để ra quyết định ngắn hạn và dài hạn không được thực hiện.
Tại công ty bước đầu đã tiến hành thu thập và phân tích thông tin về doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, việc phân tích mới chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa kế hoạch và thực hiện một số yếu tố chi phí thông qua “Dự toán kế hoạch tiêu thụ và sản xuất”.
Công ty cũng chưa thực hiện phân tích điểm hòa vốn, cũng như phân tích mối quan hệ CP-doanh thu- lợi nhuận, một trong những phân tích quan trọng trong công tác KTQT.
Một số báo cáo như báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đối kế toán được công ty phân tích kỹ hơn nhưng cũng chỉ dừng lại ở một số nội dung chủ yếu để phân tích BCTC như cơ cấu vốn, cơ cấu nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán, tỷ suất lợi nhuận, khả năng lưu chuyển vốn...
Hệ thống báo cáo kế toán tại doanh nghiệp chủ yếu là báo cáo tài chính để phục vụ cho mục đích cung cấp thông tin ra bên ngoài, hệ thống báo cáo kế toán quản trị còn sơ sài, chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin, là cơ sở cho việc ra quyết định của nhà quản trị.
Qua khảo sát thực tế cho thấy, báo cáo KTQT tại công ty thực chất chỉ là các báo cáo kế tài chính toán chi tiết. Hệ thống báo cáo KTQT tại mới chỉ dừng lại ở việc lập các báo cáo CP theo khoản mục và theo yếu tố CP, chưa phục vụ được nhiều cho chức năng hoạch định của nhà quản trị.
Những báo cáo này được lập chủ yếu là chi tiết một số chỉ tiêu mà trên các BCTC chưa thể hiện được. Do đó, những báo cáo này chưa thể hiện được chức năng phân tích của báo cáo KTQT. Vì vậy, tác dụng định hướng cho nhà quản trị DN trong việc ra quyết định bị nhiều hạn chế.
2.3.2.2 . Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất : Công tác kế toán quản trị trong hệ thống kế toán Việt Nam còn mới và non trẻ, chưa được đầu tư một cách chuyên sâu về nghiên cứu cũng như triển khai kế toán quản trị, do vậy hệ thống văn bản, nguyên tắc, chuẩn mực liên quan đến kế toán quản trị là hầu như chưa có. Bộ tài chính mới chỉ ban hành thông tư đầu tiên hướng dẫn công tác kế toán quản trị đó là Thông tư 53/2006/TT-BTC ngày 12/06/2006
Các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp ACC, ICW,.. chưa nghiên cứu, ban hành, thông báo rộng rãi các văn bản giới thiệu chuyên sâu, hướng dẫn cụ thể về KTQT. Do vậy việc tiếp cận các thông tin chính thống về KTQT của doanh nghiệp là tương đối khó khăn và hạn chế.
Thứ hai: Hệ thống văn bản giữa các Bộ, Ngành còn có những mâu thuẫn, chồng chéo có sự “không thống nhất” giữa Luật kế toán và Luật thuế… Điều này dẫn đến cty gặp không ít vướng mắc trong quá trình thực hiện hoạt động SXKD.
Thứ ba: Hiện nay, luật kế toán và chuẩn mực kế toán đã được xây dựng và cải cách căn bản theo quan điểm hội nhập với khu vực và quốc tế, nhưng không tránh khỏi những điểm chưa phù hợp, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý kinh tế đặc thù của Việt Nam, vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi.
Thứ tư: Các nhà làm chế độ kế toán khi xây dựng các quy định về kế toán chỉ chú ý đến nhiều khía cạnh KTTC đó là kiểm soát DN của Nhà nước, bảo vệ lợi ích cho DN nhà nước, ít chú ý đến công tác KTQT.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: Năng lực, trình độ chuyên môn của của nhân viên kế toán trong công ty còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu công việc trong điều kiện mới. Thêm vào đó, công ty chưa có các khóa học đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn về kế toán quản trị. Đội ngũ nhân viên kế toán hay thay đổi làm ảnh hưởng đến đến chất lượng, hiệu quả và sự ổn định của bộ máy kế toán.
Thứ hai: Hệ thống kế toán Việt Nam đang trong quá trình đổi mới theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong quá trình cải cách khó tránh khỏi những hạn chế dẫn tới việc vận dụng chế độ kế toán trong Cty gặp lúng túng. Chế độ kế toán thường xuyên thay đổi dẫn đến việc cập nhật và vận dụng ở công ty còn chậm và chưa đầy đủ.
Thứ ba: Nhận thức về vai trò của kế toán quản trị trong công tác quản lý còn chưa được thống nhất trong ban lãnh đạo và người lao động của doanh nghiệp. Một số cá nhân, bộ phận doanh nghiệp chưa có ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của KTQT trong việc tổ chức hạch toán doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh nhằm tạo cơ sở cho việc ra quyết định của nhà quản trị. Bên cạnh đó, ban giám đốc cũng chưa có thói quen ra quyết định dựa trên cơ sở thông tin KTQT mà chủ yếu vẫn dựa trên kinh nghiệm bản thân. Do vậy công tác kế toán quản trị doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ tư: Ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm kế toán quản trị trong doanh nghiệp chưa được thực hiện khiến khối lượng công việc kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tương đối lớn, mất nhiều thời gian và không thể chú trọng làm chi tiết tất cả các nội dung KTQT.
Công tác tổ chức bộ máy kế toán quản trị chưa được hình thành một cách hệ thống khoa học khiến cho việc triển khai các nội dung kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tương đối khó khăn và chồng chéo.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận văn đã trình bày khái quát phân tích đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh, tô chức quản lý, tổ chức kế toán tại công ty, làm rõ được thực trạng KTQT doanh thu, chi phí, KQKD tại công ty. Đồng thời, đánh giá và nêu rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng kế toán quản trị doanh thu chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty Trên cơ sở những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân thấy sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán quản trị doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh tại công ty nhằm nâng cao hiệu quả thông tin KTQT cung cấp cho nhà quản trị ra quyết định.
Đây cũng chính là cơ sở để đề xuất một số giải pháp cũng như kiến nghị góp phần hoàn thiện“Kế toán quản trị doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh”.
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH THU, CHI PHÍ VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI VIỆT ANH
3.1 Định hướng và yêu cầu hoàn thiện kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh.
3.1.1 Định hướng phát triển của công ty
Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh đặt chiến lược trở thành một trong những công ty dẫn đầu của Việt Nam về ngành sản xuất gạch ốp, lát. Công ty phấn đấu đưa những dòng sản phẩm với chất lượng tốt nhất và giá thành phù hợp. Công ty chú trọng đầu tư vào các thiết bị có công nghệ hiện đại và thân thiện với môi trường.
Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh đầu tư phát triển nguyên liệu đầu vào, mở rộng các sản phẩm gạch ứng dụng trong nhiều lĩnh vực xây dựng như nhà ở, trường học, các khu nhà chung cư...
Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh xây dựng văn hóa doanh nghiệp mang tính nhân văn, minh bạch, gìn giữ uy tín, kích thích sáng tạo, thúc đẩy học hỏi và tăng trưởng, tích cực tham gia các hoạt động phát triển vì cộng đồng.
Trong thời gian qua công ty đã tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt và đã đáp ứng được cả những khách hàng khó tính nhất, công ty đang cho đầu tư nhà xưởng, các dây chuyền sản xuất còn thiếu. Kết quả kinh doanh của DN rất khả quan (Bảng 3.1: Bảng kết quả kinh doanh năm 2018)
Hiện nay công ty đang mở rộng sản xuất và tăng cường kinh doanh ra các tỉnh thành trong cả nước, đẩy mạnh việc xuất khẩu và thực hiện chiến lược đầu tư giai đoạn 2020-2025 thêm một nhà máy sản xuất.
3.1.2 Hoàn thiện kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty Trách nhiệm Hữu hạn sản xuất và Thương mại Việt Anh.
Từ thực trạng Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh. Việc hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh là một đòi hỏi khách quan và mang tính cấp thiết, việc hoàn thiện phải đáp ứng yêu cầu cơ bản sau:
Một là: Hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD tại các công ty cần tiếp cận phù hợp với nguyên tắc kế toán, chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với các quy định của Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và các Chế độ kế toán có liên quan
của nhà nước Việt Nam. Luật kế toán, các chuẩn mực kế toán và các thông tư hướng dẫn thực hiện chuẩn mực chỉ cung cấp một khung pháp lý chung cho các DN mà chưa có các quy định cụ thể áp dụng cho công ty. Vì vậy, khi hoàn thiện kế toán CP, DT, KQKD trong công ty cần có các vận dụng hợp lý các quy định chung đó.
Hai là: Hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD tại công ty cần phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Sự hội nhập về quốc tế sẽ kéo theo sự hội nhập về kế toán, khi thông tin kế toán được xử lý theo những chính sách kế toán quá khác biệt sẽ làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Vì vậy, khi đi hoàn thiện, xây dựng kế toán quản trị DT, CP và KQKD tại công ty cần phải đảm bảo phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực kế toán quốc tế. Khi ngôn ngữ kế toán có sự đồng điệu sẽ thuận lợi, thúc đẩy cho quá trình hội nhập kinh tế phát triển.
Ba là: Hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD tại công ty cần bảo đảm phù hợp với môi trường kinh doanh và đặc điểm tồ chức HĐKD, yêu cầu, trình độ QLDN; cần xuất phát từ đặc điểm môi trường kinh doanh và đặc điểm tổ chức HĐKD của cty để xây dựng, hoàn thiện hệ thống kế toán CP, DT, KQKD tương xứng, có thể phục vụ tốt nhất trong quá trình kinh doanh của công ty.
Bốn là: Hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD tại các DN cần thực hiện cả về KTTC, KTQT, nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ các thông tin cho các đối tượng quan tâm đến thông tin kế toán các DN. Vì đối tượng sử dụng thông tin khác nhau nên yêu cầu nguồn thông tin cung cấp và sử dụng cũng khác nhau. Đối tượng sử dụng thông tin do KTTC cung cấp rất đa dạng, chủ yếu là các đối tượng bên ngoài DN như: Nhà nước, ngân hàng, các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư,...do đó thông tin do KTTC cung cấp phải có độ tin cậy, khách quan, có giá trị pháp lý cao, trình bày đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu cho người sử dụng thông tin, đặc biệt thông tin trọng yếu phải được trình bày công khai. Ngược lại, thông tin do KTQT cung cấp lại nhằm phục vụ cho đối tượng trong nội bộ DN. Những thông tin về CP, DT, KQKD do KTQT cung cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ra quyết định, điều hành, QLDN. Chính vì vậy, yêu cầu hàng đầu khi hoàn thiện kế toán quản trị DT, CP và KQKD là phải đáp ứng yêu cầu quản lý linh hoạt, kịp thời và hữu ích.
3.2. Các giải pháp kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh
Trước thực trạng kế toán của công ty, với góc độ là một nhà nghiên cứu, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán quản trị
doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh ở công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh như sau:
3.2.1 Giải pháp tổ chức bộ máy KTQT doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh
Để cải thiện việc thu thập thông tin, chất lượng nguồn thông tin KTQT doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh; trước tiên công ty cần phải xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy kế toán quản trị doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh. Khi đó công ty có những thông tin về kế toán quản trị doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh một cách phong phú và chi tiết. Công ty nên xây dựng bộ máy kế toán quản trị theo mô hình hỗn hợp, với việc bố trí nhân sự khoa học, theo sơ đồ sau:
Bộ phận chuyên gia KTQT doanh nghiệp
Bộ phận dự toán định mức
Bộ phận tổng hợp phân tích đánh giá
Bộ phận tư vấn ra quyết định
Sơ đồ 3.1 Bộ máy tổ chức KTQT trong doanh nghiệp
Theo đó, bộ phận xây dựng dự toán sẽ tiến hành thu thập thông tin, phối hợp với các bộ phận khác trong công ty như phòng kế hoạch tổng hợp, phòng quản lý thiết bị, phòng tài chính, các phân xưởng để xây dựng các định mức, dự toán theo kế hoạch kinh doanh.
Bộ phận tổng hợp, phân tích, đánh giá sẽ tiến hành đánh giá kết quả thực tế so với dự toán, tìm ra nguyên nhân chênh lệch, cùng với đánh giá trách nhiệm của các nhà quản trị trong việc điều chỉnh chi phí tăng giảm. Bộ phận này cũng chịu trách nhiệm phân tích đánh giá mối quan hệ doanh thu, chi phí, lợi nhuận và phân tích các thông tin thích hợp cho quyết định đầu tư của công ty.
Bộ phận tư vấn, ra quyết định căn cứ vào kết quả đánh giá của Bộ phận tổng hợp, phân tích, đánh giá và trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kinh nghiệm thực tế và đạo đức nghề nghiệp để lựa chọn các quyết định tối ưu cho nhà quản trị xem xét nhằm giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
3.2.2 Giải pháp về phân loại doanh thu chi phí kết quả kinh doanh:
Chi phí tại công ty TNHH sản xuất và thương mại Việt Anh được liệt kê theo thực tế phát sinh chứ không được phân loại, do vậy mới chỉ đáp ứng được nhu cầu thông tin KTTC, chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho KTQT. Vì vậy để quản