chỉ tiêu kế hoạch của một giai đoạn, tình hình thực hiện các giai đoạn đã qua, chỉ tiêu với các đơn vị khác.
Điều kiện để số sánh là : các chỉ tiêu so sánh phải phù hợp về yếu tố không gian, thời gian, cùng nội dung kinh tế, đơn vị đo lường, phương pháp tính toán. Phương pháp so sánh có hai hình thức :so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối. So sánh tuyệt đối dựa trên hiệu số của hai chỉ tiêu so sánh là chỉ tiêu kỳ phân tích và chỉ tiêu cơ sở. So sánh tương đối là tỷ lệ (%) của chỉ tiêu phân tích so với chỉ tiêu gốc để thể hiện mức độ hoàn thành hoặc tỷ lệ của số chênh lệch tuyệt đối với chỉ tiêu gốc để nói lên tốc độ thay đổi.
Trong đề tài này, các tác giả kết hợp cả hai hình thức so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối. Sự kết hợp này sẽ bổ trợ cho nhau giúp chúng ta vừa có được những chỉ tiêu cụ thể về khối lượng và giá trị huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân , vừa thấy được tốc độ phát triển, thay đổi của hoạt động này của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng- chi nhánh Kinh Đô.
+Phân tích thống kê mô tả.
Dữ liệu sau khi thu thập được ở các phiếu điều tra tổng hợp theo các chỉ tiêu nghiên cứu bằng phần mềm excel.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Phân tích thực trạng huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng- chi nhánh Kinh Đô.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng- chi nhánh Kinh Đô.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm ngân hàng thương mại
* Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một trong những loại hình NH trung gian lâu đời nhất. Sự ra đời của NHTM là kết quả tất yếu khách quan của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa và phân công lao động xã hội. NHTM là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế: “Là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” [Peter Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính ] [3 ; tr 7]
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng Thương mại là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng
Số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.”.
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”
* Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
- Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là nơi kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực “đặc biệt” vì trước hết nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng là lĩnh vực rất “nhạy cảm”, nó đòi hỏi một sự thận trọng trong điều hành hoạt động ngân hàng để tránh những thiệt hại cho nền kinh tế - xã hội.
- Thứ hai: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, nhưng nguồn vốn chủ yếu mà ngân hàng sử dụng trong kinh doanh là vốn huy động từ bên ngoài, trong khi đó vốn riêng của ngân hàng lại chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn kinh doanh.
- Thứ ba: Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh chịu sự chi phối rất lớn bởi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Một NHTM không thể mở rộng hoạt động kinh doanh khi ngân hàng trung ương đang áp dụng chính sách đóng băng tiền tệ, hạn chế lạm phát và ngược lại. Do đó, việc ngân hàng mở rộng hay thu hẹp hoạt động kinh doanh của mình đều phải chịu sự chi phối bởi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
- Thứ tư: Ngân hàng thương mại là một trung gian tín dụng, đóng vai trò một tổ chức trung gian đứng ra tập trung, huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, nhu cầu vốn tiêu dùng của toàn xã hội.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
NHTM huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác; Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài; Vay vốn ngắn hạn của NHNN...
Các nhà kinh tế học đưa ra định nghĩa về hoạt động huy động vốn của NHTM rằng: “Huy động vốn là hoạt động của ngân hàng nhằm huy động được các giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh”.
1.1.2.2. Nghiệp vụ tín dụng
NHTM cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức sau: Cho vay trực tiếp (Loans) bao gồm cho vay ngắn, trung, dài hạn hoặc cho vay có bảo đảm, cho vay bằng tín chấp hoặc cho vay có tính chất sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng; Chiết khấu chứng từ có giá (Discount) tức là người vay tạm thời chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ có giá chưa đáo hạn cho ngân hàng để lấy một số tiền nhỏ hơn mệnh giá; Bao thanh toán là dịch vụ do công ty con của Ngân hàng thực hiện trong đó ngân hàng sẽ đứng ra mua nợ trên cơ sở hóa đơn, chứng từ của người bán hàng, nhờ đó người bán có được tiền ngay để đáp ứng nhu cầu, khi đến hạn người mua phải thanh toán toàn bộ; Cho thuê tài chính (Financial Leasing) là loại hình tài trợ dưới hình thức cho thuê máy móc, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và được thực hiện qua công ty con của NHTM (công ty cho thuê tài chính).
Bảo lãnh ngân hàng (Bank Guarantee) là hình thức tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh của ngân hàng mà người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế một cách thuận lợi.
1.1.2.3. Nghiệp vụ cung ứng các dịch vụ ngân hàng
Cung cấp các phương tiện thanh toán; Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN; Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép; Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng; Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng;Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
1.1.2.4. Các hoạt động khác
Góp vốn và mua cổ phần của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng khác; Góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài; Tham gia thị trường tiền tệ thông qua hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ; Kinh doanh
ngoại hối bằng cách trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc; Ủy thác và nhận ủy thác trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Cung ứng dịch vụ bảo hiểm bằng cách thành lập riêng hoặc thành lập công ty liên doanh để kinh doanh bảo hiểm; Tư vấn tài chính, cung ứng qua hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc; Bảo quản vật quý giá như tài sản quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm cố và các dịch vụ khác.
1.2. Nguồn vốn tiền gửi và Huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương
mại
1.2.1. Nguồn vốn tiền gửi của Ngân hàng thương mại
* Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Các nhà kinh tế học đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau: “Nguồn
vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hang thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác” [2, tr.11-12].
Khái niệm đó đã nói lên đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của NHTM. Nó bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay, trong đó nguồn vốn đi vay là chủ yếu và quan trọng bởi nguồn này tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Xét về bản chất, nguồn vốn của NHTM chính là những khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế được ngân hàng tập trung lại tiến hành các hoạt động kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê... qua đó đẩy nhanh chu trình luân chuyển vốn.
*Tiền gửi là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm và một số mục đích khác.
Vốn tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Mỗi công cụ huy động tiền
gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán.
Để gia tăng nguồn tiền gửi có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau như:
+ Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán)
+ Tiền gửi tiền tiết kiệm của dân cư
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
+ Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
1.2.2. Khái niệm huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại
Có một số quan điểm khác nhau về huy động vốn tiền gửi:
Theo Peter S.Rose, Huy động vốn tiền gửi là hoạt động ngân hàng nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức nhận tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch để đáp ứng các nhu cầu về vốn.
Theo khoản 13, Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam thì huy động vốn tiền gửi hay còn gọi là hoạt động nhận tiền gửi được định nghĩa như sau: Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của các tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác nhau theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thõa thuận.
Tổng kết lại, khái niệm chung về huy động tiền gửi được sử dụng trong luận văn là: huy động tiền gửi là nghiệp vụ tiếp nhận nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức và cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau để hình thành nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
1.2.3. Các phương thức, hình thức huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Các phương thức huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại:
Trong quan hệ nhận tiền gửi gồm có hai chủ thể đặc trưng, đó là NHTM và người gửi tiền (cá nhân, tổ chức). Ngân hàng thương mại được Ngân hàng nhà nước
cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của công chúng. Người gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi.
* Phương thức huy động vốn tại quầy
Đây là phương thức huy động vốn dựa trên các hình thức huy động vốn cơ bản. NHTM thu hút khách hàng đến với ngân hàng giao dịch trực tiếp tại quầy giao dịch của ngân hàng. Ngân hàng nhận tiền gửi từ khách hàng có tiền nhàn rỗi để thu hút vốn. Thông qua việc trung gian thanh toán, NHTM thu hút được số lượng lớn các khách hàng mở tài khoản tạo ra tiền gửi thanh toán. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên NHTM thường xuyên cải tiến các phương tiện thanh toán, nâng cao công nghệ thanh toán hấp dẫn thêm khách hàng và các dịch vụ. Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng, tùy thuộc vào nhu cầu ở hiện tại và tương lai nên NHTM thường quy định nhiều loại kỳ hạn tiền gửi như không kỳ hạn, có kỳ hạn từ 1 tháng đến 60 tháng với các hình thức linh hoạt cho khách hàng lựa chọn.
* Phương thức huy động vốn online
Không chỉ dừng lại ở các hình thức huy động TK tại quầy giao dịch, các ngân hàng đang tận dụng hệ thống công nghệ để đẩy mạnh huy động trực tuyến với việc phát hành các sản phẩm tiết kiệm online cho phép khách hàng không phải đến ngân hàng mà chỉ cần thao tác nhanh trên điện thoại là có thể giao dịch vào bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu thông quan mạng internet.
- TK online cho phép người gửi tiền có thể lựa chọn nhiều hình thức TK đa dạng như TK lĩnh lãi cuối kỳ, TK lĩnh lãi hàng tháng, tiết kiệm không kỳ hạn,…Người gửi chỉ phải thực hiện các thao tác đơn giản, có tính bảo mật cao, được chứng thực bằng các sao kê điện tử, tích hợp với các dịch vụ hỗ trợ như Internet Banking, SMS Banking để kiểm soát tài sản của mình, cũng như tất toán tự động khi đáo hạn. Huy động vốn tiền gửi Online sẽ giúp người có tiền không cần phải cất giữ những cuốn sổ. Những khoản tiền gửi online đã được chứng thực bằng các sao kê điện tử, giúp khách hàng dễ dàng kiểm soát tài chính của mình, cũng như thực hiện các thao tác tất toán tự động khi đáo hạn. Những bản sao kê có chứng thực của ngân hàng cũng có giá trị tương tự như các loại hình tiền gửi thông thường
giao dịch trực tiếp tại quầy. Sản phẩm tiết kiệm Online tại một số ngân hàng được thiết kế khá mở, như áp dụng điều kiện số dư thấp để có thể tạo khả năng sinh lợi cho những khoản tiền nhỏ mà người gửi “ngại” trực tiếp đến ngân hàng, hoặc với các phân tầng kỳ hạn đa dạng cùng môi trường giao dịch nhanh, phù hợp với tính linh hoạt của đồng vốn các nhà đầu tư vàng, chứng khoán trước các kỳ thị trường biến động. Với sản phẩm tiết kiệm online thì cả ngân hàng và khách hàng đều tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức cũng như chi phí di chuyển hoặc vận hành.
- Gửi tiền qua ATM là hình thức gửi tiền qua ngân hàng tự động - Autobank đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ nhiều năm. Khách hàng chọn máy có tính năng gửi tiền, đưa tiền vào khe theo quy định, lựa chọn tài khoản tiền gửi thanh toán sau đó thực hiện lệnh chuyển tiền vào tài khoản TK đã đăng ký với ngân hàng là đã có thể gửi tiền vào tài khoản thành công. Dịch vụ này cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn tự động các giao dịch gửi tiền, rút tiền, đổi ngoại tệ tại ATM giúp khách hàng có được sự linh hoạt và chủ động khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, xóa bỏ hạn chế về thời gian.
Hoạt động tại quầy | Hoạt động Online | |
Hình thức mở | Khách hàng đến trực tiếp quầy giao dịch để làm việc với nhân viên ngân hàng | Thao tác ngay trên Wed hoặc App ứng dụng của ngân hàng |
Điều kiện mở | Khách hàng cầm giấy tờ liên quan để làm việc | -Có tài khoản của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng -Khách hàng đăng ký dịch vụ internet-banking hoạc mobile-banking |
Các hoạt động | -Nhân viên kiểm tra thông tin cá nhân của khách hàng | -Khách hàng tự khai thông tin trên Wed hoạc App -Khách hàng tự lựa chọn |
Có thể bạn quan tâm!
- Huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Kinh Đô - 1
- Huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Kinh Đô - 2
- Các Hình Thức Huy Động Vốn Tiền Gửi Của Ngân Hàng Thương Mại:
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Huy Động Vốn Tiền Gửi Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Tăng Cường Huy Động Vốn Tiền Gửi Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Và Bài Học Cho Ngân Hàng Việt Nam Thịnh Vượng- Chi Nhánh Kinh Đô