Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Huy Động Vốn Tiền Gửi Của Ngân Hàng Thương Mại


Đây là cơ chế quản lý vốn từ các đơn vị quản lý đặt tại trung tâm các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng. Theo đó, mỗi chi nhánh hoạt động như một ngân hàng con, trên nguyên tắc độc lập và tự chủ trong sử dụng nguồn và tạo lập nguồn, việc nhận hỗ trợ từ trụ sở chính chỉ diễn ra trong bối cảnh các ngân hàng thiếu hụt và không thể cân đối. Hiệu quả kinh doanh cũng như các vấn đề về rủi ro đều do chính chi nhánh chịu trách nhiệm. Như vậy việc định giá các sản phẩm là có thể khác nhau giữa các chi nhánh trong cùng một hệ thống, phản ánh thông qua lời lỗ trực tiếp có được với khách hàng.

b) Nguyên tắc quản lý vốn tập trung

Cơ chế FTP vận hành thông qua trung tâm quản lý vốn đặt tại trụ sở chính của mỗi ngân hàng, trên cơ sở các đơn vị kinh doanh trong hệ thống ngân hàng đó sẽ thực hiện mua bán vốn với trụ sở chính thông qua trung tâm quản lý vốn. Dưới góc độ của các trung tâm quản lý vốn, cơ quan này sẽ đứng ra mua lại toàn bộ tài sản nợ từ chi nhánh (ví dụ như các khoản chi nhánh huy động từ khách hàng) và bán vốn để qua đó chi trả cho toàn bộ tài sản có (điển hình như các khoản chi nhánh cho vay khách hàng). Việc mua bán vốn này hình thành nên cơ sở chi phí và doanh thu của chi nhánh, từ đó thu nhập sẽ được xác định thông qua chênh lệch mua bán với trụ sở chính. Trong quá trình này, những vấn đề về thanh khoản, tỷ giá hay lãi suất sẽ được chuyển toàn bộ về trụ sở chính ngân hàng cho việc quản lý tập trung.

Quy trình của cơ chế FTP trong ngân hàng dưới góc độ trụ sở chính được mô tả tại sơ đồ.

Để vận hành theo cơ chế FTP, trụ sở chính của mỗi ngân hàng định kỳ sẽ chịu trách nhiệm xác định và thông báo giá mua bán vốn tới tất cả các đơn vị kinh doanh trong hệ thống. Sau khi nhận được thông báo, căn cứ trên kế hoạch được giao và năng lực triển khai hiện tại, kết hợp với bảng giá mua bán vốn thì các đơn vị kinh doanh sẽ đưa ra chiến lược thực hiện tại đơn vị mình. Mỗi thời kỳ mức giá mua bán sẽ được xây dựng căn cứ vào diễn biến tình hình thị trường, căn cứ vào từng sản phẩm hướng đến từng đối tượng khách hàng, từng ngành nghề kinh doanh hay từng loại kỳ hạn, đồng tiền tạo lập nguồn hay sử dụng vốn để điều chỉnh cho phù hợp.


Một trong những phương pháp quan trọng nhất đo lường lợi nhuận của ngân hàng là thu nhập lãi thuần (NII). Thu nhập lãi thuần từ trước đến nay trong kinh doanh ngân hàng là động lực lớn nhất cho lợi nhuận của sản phẩm, thường chiếm tới 80% tổng doanh thu của ngân hàng

Khi tính toán giá cả cho mỗi khoản vay, cơ chế FTP sẽ thiết lập một mức giá nội bộ trên mỗi khoản tiền gửi trong một ngân hàng và được khấu trừ như một chi phí vốn cho khoản vay. Vì vậy, thông qua hệ thống FTP thì ngân hàng đã hoàn toàn có những thông tin rõ ràng về lợi nhuận của các khoản vay, các khoản tiền gửi và các sản phẩm khác để từ đó có những điều chỉnh trong cơ cấu tài sản nợ và tài sản có sao cho hiệu quả nhất. Không dừng lại ở đó, cơ chế hữu hiệu này còn cho phép các ngân hàng đo lường lợi nhuận của các ngành nghề kinh doanh khác nhau, các đối tượng khách hàng khác nhau. Từ việc đánh giá được đặc điểm và hiệu quả hoạt động của từng chi nhánh khác nhau trong hệ thống mà từ đó cho phép ban điều hành của ngân hàng đưa ra quyết định chiến lược về giá cả sản phẩm, phát huy được tốt nhất lợi thế của từng chi nhánh ở từng địa bàn. Ngoài ra, cơ chế FTP cuối cùng còn giúp đo lường hiệu quả quản lý tài sản và nợ của trung tâm chuyên trách của mỗi ngân hàng, vốn được phụ trách bởi Ủy ban ALCO (ủy ban điều hành tài sản nợ

- tài sản có) trong mỗi ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.


* Sự cân đối giữa nguồn vốn tiền gửi và sử dụng vốn

Huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Kinh Đô - 5

Để đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn, thường sử dụng các chỉ tiêu so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu ấy. Để đạt được mục tiêu này, NHTM phải có kết cấu vốn hợp lý. Kết cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn theo ngắn hạn và trung hạn, dài hạn, cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, theo tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh nghiệp. Cơ cấu vốn hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sử dụng vốn, không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động vốn tiền gửi với nhu cầu sử dụng vốn tiền gửi.


- Nếu nguồn vốn ngân hàng huy động không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay đối với nền kinh tế, ngân hàng sẽ không phát huy hết khả năng sinh lời và không đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn. Bên cạnh đó, ngân hàng còn phải gánh chịu những thiệt hại do việc bị mất khách hàng từ tay các ngân hàng bạn và những chi phí cơ hội không đáng có.

- Nếu ngân hàng huy động được một lượng lớn nguồn Ngân hàng nhà nước nhưng không sử dụng hết nguồn vốn này, ngân hàng phải trả các chi phí lãi và phi lãi cho khoản vốn bị đóng băng mà không có khoản thu nào để bù đắp lại.

*Hệ số sử dụng vốn huy động:

Hệ số sử dụng vốn huy động (%) = Dư nợ cho vay / Nguồn vốn huy động

Nếu hệ số sử dụng vốn huy động của ngân hàng cao, điều đó chứng tỏ hiệu quả huy động vốn càng cao và ngược lại. Vốn kinh doanh của NHTM chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn lớn và tăng trưởng ổn định nhưng sử dụng để cho vay và đầu tư không có hiệu quả, tức là hệ số sử dụng vốn huy động thấp thì hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cũng thấp. Ngược lại, nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn đủ lớn, ổn định, đảm bảo được nhu cầu cho vay và hoạt động đầu tư của ngân hàng, hệ số sử dụng vốn huy động cao, có nghĩa là hoạt động huy động vốn của ngân hàng đạt hiệu quả cao.

* Cân đối vốn và sử dụng vốn theo kỳ hạn: là khả năng cân đối nguồn vốn ngắn hạn hoặc nguồn vốn trung hạn, dài hạn để đáp ứng các nhu cầu tín dụng ngắn hạn hoặc trung, dài hạn của nền kinh tế. Sự tương quan về cơ cấu vốn thường được xét theo tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn so với dư nợ ngắn hạn và tỷ lệ nguồn vốn trung, dài hạn so với dư nợ trung, dài hạn.

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại

Hoạt động huy động tiền gửi giữa các ngân hàng thương mại cạnh tranh ngày càng khốc liệt, mỗi ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính của mình. Do đó việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát


triển huy động tiền gửi của NHTM là một việc làm hết sức cấp thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề huy động tiền gửi của mỗi ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

1.2.5.1. Nhóm yếu tố khách quan

a, Những yếu tố tác động từ nền kinh tế - chính trị - xã hội

- Chu kỳ phát triển kinh tế: Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một nhân tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động huy động tiền gửi nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, tăng trưởng và ổn định, thu nhập của người dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu tích lũy của dân cư cao hơn từ đó lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng lên hay khả năng huy động tiền gửi tăng lên. Ngân hàng có thể mở rộng khối lượng tín dụng bằng cách tăng lãi suất huy động nhằm kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng để tạo nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền tín dụng của nền kinh tế. Ngược lại khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, thu nhập thực tế của người dân giảm và ngày càng biến động điều này sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng tiền hơn nữa khi thu nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm xuống, mà lượng tiền dân cư đã ký thác vào hệ thống ngân hàng còn có nguy cơ bị rút ra. Khi đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản ký dự trữ và củng cố lòng tin của khách hàng vào hệ thống ngân hàng.

- Môi trường pháp lý: Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của nhà nước.

- Yếu tố chính trị: Một quốc gia có tình hình chính trị ổn định, an toàn sẽ tạo sự an tâm cho người dân làm ăn sinh sống, do đó không phải tích luỹ, dự trữ tiền nhiều cho những trường hợp đặc biệt. Nhờ vậy mà NHTM có khả năng thu hút được nhiều vốn hơn. Trái lại, với một số quốc gia tình hình chính trị bất ổn định sẽ gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân do vậy sẽ khiến họ tích trữ nhiều


của cải, tiền bạc bên người để đề phòng bất trắc nên hạn chế việc gửi tiền vào ngân hàng từ đó khả năng huy động vốn từ dân cư giảm.

- Yếu tố văn hoá xã hội: Mỗi quốc gia có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc của dân tộc như: tập quán, thói quen, tâm lý…Đối với ngân hàng hoạt động huy động vốn từ dân cư là hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố văn hoá – xã hội. Ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng các tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong tiềm thức của họ ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là một phần tất yếu của nền kinh tế. Do vậy ngân hàng không mấy khó khăn trong việc huy động vốn từ dân cư.

Quy mô dân cư, chất lượng đời sống của người dân không chỉ là yếu tố ảnh hưởng đến số lượng, kết cấu các sản phẩm dịch vụ của NHTM mà nó còn là yếu tố rất quan trọng để xây dựng và điều chỉnh hoạt động của ngân hàng. Ở các thành phố lớn có quy mô dân cư đông đúc, với mức sống cao, thu nhập cao thì sẽ là khu vực có số lượng khách hàng tiềm năng lớn có khả năng tích tuỹ cao. Các NHTM thường tập trung phát triển mạng lưới ở khu vực này để thu hút vốn. Ngược lại ở các khu vực xa xôi hẻo lánh, mức sống của người dân thấp thì khả năng tiếp cận với các dịch vụ tài chính là ít hơn và nguồn tiền nhàn rỗi cũng ít hơn.

b, Sự cạnh tranh trong môi trường huy động.

Trong nền kinh tế thị trường canh tranh là hiện tượng phổ biến và khách quan.Ngành ngân hàng là một trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và ngày càng phức tạp. Trong những năm qua, thị trường tài chính ngày càng trở nên sôi động hơn do sự tham gia của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là có hạn. Từ đó làm mất tính độc quyền của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, hình thức cạnh tranh không đa dạng như các ngành khác làm cho tính cạnh tranh của ngân hàng ngày cang cao. Các ngân hàng cạnh tranh chủ yếu bằng hình thức lãi suất và dịch vụ, chưa phổ biến hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ. Do đó ngân hàng phải xây dựng được mức lãi suất như thế nào là hợp lý


nhất, hấp dẫn nhất kết hợp với danh tiếng và uy tín của mình để tăng được thị phần huy động. Điều này là rất khó khăn vì nếu lãi suất cao hơn đối thủ cạnh tranh thi lãi suất cho vay cũng phải tăng lên để đảm bảo ngân hàng vẫn có lãi, nếu lãi suất thấp hơn thì không hấp dẫn được khách hàng

c, Yếu tố tâm lý , thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư

Với những nền kinh tế chịu tình trạng đô la hoá cao thì việc huy động vốn từ người dân gặp nhiều khó khăn. Do người dân lo sợ sự mất giá của đồng nội tệ, ưa chuộng cất trữ ngoại tệ nên các ngân hàng khó khăn trong huy động được vốn bằng nội tệ.

Ở các nước phát triển thì tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán chỉ chiếm 2 đến 3%, thói quen tiêu dùng và thanh toán của họ chủ yếu thông qua ngân hàng và hầu hết tiền của họ là do ngân hàng quản lý thông qua tài khoản cá nhân do đó NHTM có thể tăng huy động vốn để đầu tư. Ở các nước đang phát triển thì khác, người dân có thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán thì sẽ hạn chế khả năng huy động vốn từ người dân. Mặt khác, tâm lý người tiêu dùng rất khác nhau giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia. Có thể với cùng một mức thu nhập, cùng một giá sinh hoạt như nhau nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ vào tiết kiệm lớn nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng. Chính vì lẽ đó mà thu nhập cao chưa chắc tiết kiệm đã cao.

1.2.5.2 Các yếu tố chủ quan

a, Chiến lược và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng

Mỗi ngân hàng tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể, phù hợp với các điều kiện cụ thể bên trong và bên ngoài ngân hàng. Chiến lược kinh doanh có tính quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng cần phải xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, thấy được những cơ hội và thách thức. Trên cơ sở đó dự đoán sự thay đổi của môi trường để xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến lược phát triển quy mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể của ngân hàng. Trong từng thời kỳ, dựa trên các chỉ tiêu được giao về


hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác của ngân hàng trung ương cùng với tình hình thực tế của từng ngân hàng, ngân hàng phải lập kế hoạch và lên cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Mặt khác, trong chiến lược kinh doanh của mình ngân hàng cần phải đặc biệt chú trọng vào chi phí vốn mà ngân hàng phải chịu trong khâu huy động. Phải tìm kiếm nguồn vốn rẻ, thời hạn dài thông qua việc lựa chọn các hình thức huy động khác nhau, có như vậy ngân hàng mới chủ động trong việc tìm kiếm và sử dụng vốn.

b, Chính sách chăm sóc khách hàng

Để thu hút khách hàng ngân hàng cần xây dựng chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp với từng nhóm khách hàng, trước tiên các NHTM cần phải xây dựng các tiêu chí đánh giá, phân loại khách hàng theo từng nhóm đối tượng. Để hoạt động chăm sóc khách hàng đạt hiệu quả tối ưu thì hệ thống chính sách cần nhất quán, „nói đi đôi với làm‟ tạo sự chủ động cho cán bộ quan hệ khách hàng và tạo niềm tin cho khách hàng.

c, Chính sách lãi suất huy động

Lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn của NHTM. Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh với ngân hàng khác là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới cũng như duy trì các khoản tiền gửi hiện có, ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn.

d, Mạng lưới chi nhánh của NHTM

Mở rộng mạng lưới nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh. Những người gửi tiền thường quan tâm đến việc thuận lợi trong việc gửi tiền. Nhất là những khoản tiết kiệm của dân cư thường là không lớn nên người dân rất ngại đi một quãng đường xa đến vài km để gửi tiền. Vì vậy để huy động được khoản tiền gửi của dân chúng thì nhất thiết ngân hàng phải mở rộng mạng lưới chi nhánh và thực hiện tốt công tác tổ chức mạng lưới phục vụ.


Mở rộng mạng lưới phải gắn với thực lực tài chính, phải đảm bảo các điều kiện về an toàn kho quỹ, hệ thống mạng… nhưng trên thực tế, cùng với việc mở rộng chi nhánh vượt quá năng lực vốn và khả năng điều hành, một số ngân hàng thương mại còn giao nhiều quyền quyết định cho chi nhánh và có nguy cơ hình thành ngân hàng con trong một ngân hàng thương mại.

e, Thương hiệu của ngân hàng

Thương hiệu là một nhân tố rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Thông thường, khách hàng lựa chọn những ngân hàng uy tín và vị thế trên thị trường để giao dịch, vay mượn, thanh toán, bảo lãnh…Một ngân hàng lớn sẵn có uy tín có tiếng tăm trong nhiều năm sẽ có lợi thế trong việc huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí huy động. Các ngân hàng có danh tiếng thì mức lãi suất huy động không cần cao cũng có thể huy động được nhiều người gửi tiết kiệm nhưng nếu với ngân hàng không có uy tín thì chỉ có một công cụ duy nhất để thu hút khách hàng là tăng lãi suất (đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận thu được). Tiêu chí đầu tiên của người đi gửi tiền là an toàn đồng tiền họ gửi vào ngân hàng nên có thể thấy trong các cuộc chạy đua lãi suất năm 2008 và từ cuối năm 2010 đến nay, hầu hết các ngân hàng nhỏ đều tìm kiếm khách hàng bằng việc tăng lãi suất nhưng hầu như các khách hàng lớn vẫn gửi tiền ở các ngân hàng lớn. Đối với họ lãi suất chỉ là một khoản rất nhỏ so với nguồn tiền của họ gửi vào ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại cần nâng cao uy tín thông qua các nghiệp vụ của mình, từng bước thỏa mãn tối đa nhu cầu của người gửi tiền.

f, Tính tiện ích các dịch vụ do ngân hàng cung cấp.

Một yếu tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng nguồn tiền gửi huy động từ KHCN là hình thức, kỳ hạn và các dịch vụ cung cấp có liên quan như giao dịch tại nhà, rút tiền tự động, tư vấn kinh doanh... ngoài ra còn có một số yếu tố khác như thời gian và thủ tục giao dịch.

Trong nền kinh tế thị trường thì hiện tượng cạnh tranh là tất yếu, việc đáp ứng nhu cầu khách hàng là điều kiện tiên quyết để đạt được thắng lợi trong kinh doanh.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 13/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí