một khoản kinh phí như nhau từ NSNN là điểm bất cập hiện nay. Với những ngành Du lịch mà nhu cầu xã hội cần nhiều, người học thích học sẽ phải chịu một cơ chế khác so với những ngành học nhà nước cần nhưng người học chưa mặn mà.
Nguồn vốn từ dân đóng góp qua hình thức học phí từ năm 2009 trở về trước tăng chủ yếu là do chỉ tiêu tuyển sinh qua các năm tăng. Quy định về mức thu học phí chậm thay đổi qua các năm, khung học phí từ năm 1998 đến năm 2009-2010 không thay đổi nên gây khó khăn cho các CSĐTDL công lập trong việc huy động nguồn thu học phí. Từ năm 2010-2011 đã có sự thay đổi về mức trần học phí cho phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế xã hội nên nguồn thu học phí tăng vọt, chủ yếu là do khung học phí tăng gấp 2 – 3 lần so với trước và số lượng học sinh, sinh viên tăng khoảng 7% đều đặn qua các năm. Tuy nhiên, đối với các ngành Du lịch, chi phí đào tạo cho từng ngành khác nhau nhưng mức học phí lại cào bằng nên gây bất hợp lý cho một số ngành nghề đào tạo du lịch. Mặt khác, một số ngành đào tạo du lịch chưa có trong mã ngành đào tạo của Bộ GDĐT nên khó khăn cho các CSĐTDL trong việc tuyển sinh đầu vào. Việc trao quyền tự chủ tài chính cho các CSĐTDL hiện tại vẫn còn nhiều bất cập. Mặc dù là tự chủ về tài chính nhưng các CSĐTDL tự chủ không được tự xác định mức học phí, vẫn phải tuân thủ mức trần học phí, vốn rất thấp được quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Bên cạnh đó, các cơ sở không được tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp với năng lực và tình hình thực tế của mình.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài mới chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng vốn đầu tư cho NNLDL. Việc huy động và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế. Chậm cụ thể hoá chủ trương, chính sách định hướng thu hút và sử dụng vốn ODA cho phát triển NNLDL. Trong số các dự án ODA đầu tư cho lĩnh vực du lịch thì chỉ có rất ít dự án đầu tư cho NNLDL. Quy
trình và thủ tục thu hút và sử dụng vốn ODA chưa rõ ràng và còn thiếu minh bạch. Quy trình thủ tục quản lý vốn ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài hoà, gây chậm trễ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, làm giảm hiệu quả đầu tư và tăng chi phí giao dịch. Chưa có một dự án FDI, FII nào đầu tư cho NNLDL. Điều này thể hiện sự e ngại của nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực NNLDL.
Hầu hết các CSĐTDL chưa đảm bảo đủ nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển NNLDL. Vốn đầu tư từ người dân đóng góp qua đóng học phí có nhu cầu ngày càng cao cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế toàn cầu, tuy nhiên thực tế khung học phí đã được điều chỉnh nên mức đảm bảo vốn đầu tư từ nguồn này đã được nâng lên. Số lượng lao động có nhu cầu được đào tạo nghiệp vụ du lịch ngày càng nhiều nên nguồn vốn NSNN tính trên một nhân lực du lịch ngày càng giảm, mức đảm bảo nhu cầu vốn NSNN càng giảm. Như vậy, để đảm bảo đủ nhu cầu vốn đầu tư cần phải nỗ lực rất nhiều từ nhà nước, người dân, CSĐTDL, doanh nghiệp du lịch và toàn xã hội cho phát triển NNLDL.
Suất đầu tư cho một nhân lực du lịch trong các CSĐTDL công lập năm 2013 so với năm 2006 tăng lên 1,4 lần nhưng hệ số vốn đầu tư trên thu nhập du lịch chỉ giảm khoảng 0,4 lần. Như vậy, hiệu quả đầu tư cho phát triển NNLDL trong các CSĐTDL tăng chưa tương xứng với tốc độ đầu tư vào NNLDL của vốn đầu tư.
- Đối với các CSĐTDL ngoài công lập:
Nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn từ dân đóng góp qua hình thức học phí. Các CSĐTDL ngoài công lập phải hoàn toàn tự chủ tài chính, không được nhà nước hỗ trợ nguồn vốn đầu tư do đó, mức học phí cao hơn nhiều lần so với mức học phí của các CSĐTDL công lập. Chính mức học phí là rào cản lớn nhất đối với người học nên ảnh hưởng rất lớn đến số lượng người học tại các CSĐTDL ngoài công lập.
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Với Các Cơ Sở Tham Gia Đào Tạo Nnldl Ngoài Công Lập
- Nhu Cầu Vốn Đầu Tư Trong Nước Cho Nnldl Của Các Csđtdl Thuộc Bộ Vhttdl Giai Đoạn 2006-2013
- Hệ Số Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Nnldl Trên Thu Nhập Du Lịch Của Các Csđtdl Trực Thuộc Bộ Vhttdl Giai Đoạn 2006-2013
- Mục Tiêu Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Việt Nam Trong Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Đến Năm 2020
- Nhu Cầu, Khả Năng Và Quan Điểm Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Việt Nam Trong Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Đến Năm 2020
- Nhu Cầu Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Nnldl Đến Năm 2020
Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.
- Đối với các doanh nghiệp du lịch:
Hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên để hạn chế sự luân chuyển lao động và giảm chi phí, doanh nghiệp du lịch ít chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên của mình. Các doanh nghiệp đã bắt đầu chú ý đến bồi dưỡng, đào tạo phát triển NNLDL nhưng hình thức còn hạn chế mới chỉ hầu hết dừng ở đào tạo tại chỗ. Nguồn lực tài chính dành cho phát triển NNLDL còn eo hẹp chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển NNLDL tại các doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp du lịch hiện nay chưa thực hiện việc đóng góp kinh phí đào tạo, phát triển NNLDL khi sử dụng nhân lực từ những CSĐTDL cung cấp. Nhà nước cũng chưa có cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp du lịch tham gia tích cực, chủ động vào phát triển NNLDL nên chưa huy động được tối đa nguồn lực từ phía doanh nghiệp.
2.3.2.2. Nguyên nhân
HĐVĐT cho phát triển NNLDL trong những năm qua còn tồn tại những hạn chế trên là do một số nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan
- Từ phía Nhà nước
Thứ nhất, Cơ chế, chính sách chậm đổi mới: Chậm cải cách hành chính, chậm đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… là nguyên nhân chủ yếu, cản trở nhiều đến việc giải quyết có hiệu quả những vướng mắc, khó huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để tạo sự hợp lý và bền vững của đào tạo, phát triển NNLDL.
Đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa cao, bồi dưỡng nhân lực khối sự nghiệp và kinh doanh du lịch chưa được quan tâm đều khắp cả nước. Công tác xây dựng luật pháp về đào tạo phát triển NNLDL, tuyên truyền phổ biến và tổ chức thực hiện còn nhiều lúng túng. Cơ chế, chính sách về dạy nghề du lịch chưa thay đổi kịp với việc chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Chính sách tiền lương đối với giáo viên, giảng viên dạy nghề chưa thỏa đáng, chưa có chính sách tiền lương cho người tốt nghiệp theo ba cấp trình độ đào tạo nghề. Một số chính sách còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là cơ chế, chính sách dạy nghề tại doanh nghiệp, làng nghề, một số chính sách đã được ban hành nhưng việc triển khai chậm như: chính sách tín dụng, chính sách giao, cho thuê đất, chính sách ưu đãi về thuế thu nhập đối với cơ sở đào tạo hoặc doanh nghiệp có CSĐTDL.
Thủ tục hành chính, pháp lý còn nhiều bất cập trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các văn bản pháp lý còn thiếu và chưa đồng bộ. Trong khâu phê duyệt thiết kế chi tiết, dự toán, nội dung đấu thầu còn nhiều thủ tục rườm rà làm cho thời gian kéo dài, dẫn đến việc khi dự án đi vào thực hiện có nhiều khác biệt so với ban đầu, do đó phải bổ sung và điều chỉnh dự án nhiều lần. Mô hình tổ chức triển khai dự án FDI, ODA rườm rà, qua nhiều cấp trung gian, phân công trách nhiệm không rõ ràng hoặc độc quyền và lạm quyền quyết định từ khi bắt đầu dự án đến khi kết thúc, làm chậm giải ngân vốn, tiến độ thực hiện dự án và thất thoát vốn đầu tư. Việc bố trí vốn đối ứng còn thiếu hoặc chưa kịp thời và tâm lý dựa vào vốn đối ứng của ngân sách vẫn còn nặng.
Thứ hai, Sự phối hợp quản lý giữa các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ: Sự phối hợp quản lý giữa ngành và lãnh thổ, giữa các địa phương về đào tạo, phát triển NNLDL chưa thường xuyên chặt chẽ, dẫn đến tình trạng chồng chéo và buông lỏng trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân lực. Việc huy động vốn và xã hội hóa để phát triển NNLDL của một số địa phương chưa được quan tâm. Chưa có sự phối hợp liên ngành và giữa trung ương với địa phương trên mỗi vùng lãnh thổ trong tổ chức các hoạt động đào tạo phát triển NNLDL dẫn đến tình trạng có địa phương có tài nguyên du lịch, “cầu” nhân lực du lịch rất cao nhưng “cung” lại không đủ. Mặt khác, có địa phương xác định được định
hướng cần phát triển NNLDL nhưng thiếu vốn. Một số Luật còn mang tính bao quát chung, chưa thể hiện cụ thể những đặc thù chuyên ngành của phát triển NNLDL nên khi triển khai thực hiện gặp nhiều vấn đề vướng mắc về quản lý hành chính nhà nước đối với các hoạt động đào tạo NNLDL. Còn có những quy định pháp lý chưa thực sự tạo bình đẳng cho tất cả các CSĐTDL thuộc mọi thành phần kinh tế, cơ sở công lập được ưu tiên nhiều hơn và tạo ra sự độc quyền trong quản lý và hoạt động đào tạo nhân lực do vậy chưa thực sự tạo quyền tự chủ, độc lập cho các cơ sở tham gia phát triển NNLDL.
Thứ ba, Chưa có quy định và chế tài mạnh liên quan đến huy động vốn phát triển NNLDL: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến huy động vốn phát triển NNLDL chủ yếu tập trung vào những quy định về tổ chức hệ thống, chưa có những quy định và chế tài mạnh về tài chính cho phát triển NNLDL trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Chưa có khung pháp lý cho các CSĐTDL hoạt động theo hình thức kinh doanh, phi lợi nhuận hay hoạt động dưới dạng nhân đạo, phúc lợi xã hội. Chưa có những quy định, chế tài mạnh để xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi và thu hút các cơ sở sử dụng nhân lực (trước hết và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp, đơn vị có thu) trực tiếp tổ chức và tham gia đào tạo NNLDL. Hiện nay, chưa có tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch, làm cơ sở cho người sử dụng tuyển chọn đầu vào và cơ sở đào tạo đề ra mục tiêu đào tạo và thiết kế nội dung chương trình đào tạo, liên thông đào tạo, đánh giá chất lượng đào tạo dẫn đến tình trạng chất lượng bị thả nổi, kiểm định chất lượng đào tạo, gắn với yêu cầu xã hội, yêu cầu của thị trường, để so sánh quốc tế về trình độ đào tạo và trình độ NNLDL Việt Nam với các nước. Việc quản lý, kiểm định chất lượng đào tạo NNLDL còn nhiều yếu kém, tiêu chuẩn về cơ sở đào tạo, trình độ giáo viên, trình độ ngành nghề còn cũ, lạc hậu, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế và không tương thích, chưa tiếp cận được với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và trên thế giới, song lại chậm
được sửa đổi, hoặc nếu có sửa đổi thì rất chậm và mang tính chắp vá, chỉ tập trung giải quyết tình thế, mà chưa có hệ thống theo định hướng chiến lược lâu dài.
- Từ phía CSĐTDL: Việc huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển NNLDL còn hạn chế. Các CSĐTDL công lập còn chưa chủ động, tích cực khai thác các nguồn kinh phí bổ sung cho đào tạo nghề. Điều kiện dạy và học của các CSĐTDL còn nhiều khó khăn và hạn chế. Chi phí đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị của các CSĐTDL đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian đầu tư dài, hiệu quả đầu tư khó xác định do vậy khó có sức hút đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trình độ quản lý phát triển CSĐTDL chưa theo kịp thực tiễn và nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội, chậm đổi mới tư duy và phương thức quản lý, chậm đề ra định hướng chiến lược và chính sách vĩ mô để xử lý mối tương quan giữa quy mô, chất lượng và hiệu quả trong giáo dục, đào tạo nghề. Việc phát triển CSĐTDL chưa được quan tâm đúng độ, chưa đánh giá được tầm quan trọng và vai trò của của cơ sở đào tạo trong xây dựng và phát triển nhân cách, chuẩn mực xã hội, phát triển trí lực và thể lực toàn dân, trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Từ phía cơ sở sử dụng NNLDL (doanh nghiệp du lịch): Các cơ sở sử dụng NNLDL như các khách sạn, nhà hàng, công ty lữ hành… vẫn giữ tâm lý sử dụng miễn phí sản phẩm đào tạo của các CSĐTDL. Ở một số địa phương kém phát triển còn sử dụng lao động du lịch chưa qua đào tạo dẫn đến tình trạng làm giảm chất lượng NNLDL, kéo theo giảm chất lượng sản phẩm du lịch. Điều này dẫn đến việc xã hội hóa phát triển NNLDL chưa hiệu quả. Huy động vốn từ kênh xã hội hóa kém hiệu quả do bản thân các cơ sở sử dụng nhân lực du lịch cũng không chung tay cùng CSĐTDL đào tạo NNLDL. Mặt khác, việc đào tạo lại NNLDL ngay tại cơ sở sử dụng nhân lực du lịch cũng chưa được các cơ sở
này quan tâm làm nhân lực du lịch không được cập nhật kiến thức chuyên môn cho phù hợp với xu hướng du lịch trong điều kiện HNKTQT. Qua khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp du lịch đều cho rằng họ không có vai trò gì trong phát triển NNLDL tại các CSĐTDL. Như vậy, trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cần thiết phải có sự tham gia của doanh nghiệp để gắn kết giữa lý thuyết và thực hành nâng cao chất lượng nhân lực du lịch, mặt khác tận dụng nguồn vốn đầu tư từ chính những doanh nghiệp sử dụng lao động của CSĐTDL dưới hình thức “đơn đặt hàng” của những doanh nghiệp này.
Nguyên nhân khách quan
- Bất ổn an ninh, chính trị, kinh tế thế giới: Du lịch Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh mẽ của những bất ổn chính trị, xung đột, khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, khủng khoảng kinh tế, tài chính ở các nước đối tác, các thị trường truyền thống. Tranh chấp, bất đồng khu vực, đặc biệt vấn đề gắn với biển đông có tác động mạnh, trực tiếp đến hoạt động du lịch của Việt Nam. Đây là nguyên nhân bao trùm trong quá trình hội nhập du lịch toàn cầu, ứng phó với khủng khoảng kinh tế, bất ổn an ninh, chính trị trên bình diện quốc tế.
Sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt đối với ngành Du lịch Việt Nam là ngành còn non trẻ và còn nhiều điểm yếu. Ngành Du lịch nói chung và CSĐTDL nói riêng bị cạnh tranh về dòng vốn đầu tư, về chất lượng, hiệu quả kinh doanh và xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia. Cạnh tranh giữa các điểm đến trong khu vực như Thailand, Malaysia, Indonesia, Philiphines, Camphuchia đang trở nên quyết liệt hơn với quy mô và tính chất mới do có yếu tố công nghệ mới và toàn cầu hóa. Những yếu tố cạnh tranh quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch với lợi thế quốc gia và sự độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam nếu không sẽ thua thiệt trong cạnh tranh toàn cầu.
- Sự thay đổi nhu cầu du lịch, nhu cầu học tập: Nhu cầu du lịch thế giới có nhiều thay đổi, hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống, giá trị tự nhiên, giá trị sáng tạo và công nghệ cao. Chất lượng môi trường trở thành yếu tố quan trọng cấu thành giá trị thụ hưởng du lịch và là thách thức vô cùng lớn về quan điểm, nhận thức và chuyên môn kỹ thuật. Du lịch Việt Nam vẫn chưa nắm bắt kịp xu hướng du lịch này nên sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu, mất thị phần và hiệu quả thấp. Việc thay đổi nhu cầu du lịch của du khách có tác động mạnh mẽ đến định hướng đào tạo NNLDL của Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế.
Trong những năm qua giáo dục nước ta nói chung và đào tạo du lịch nói riêng chịu sức ép rất lớn về nhu cầu học tập ngày càng tăng của xã hội. Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa đang làm thay đổi thang giá trị xã hội, phẩm chất của người lao động... Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng phát triển nhân cách người học, người lao động. Giáo dục và dạy nghề du lịch chưa có những biện pháp hiệu quả để tác động tích cực đến những thay đổi đó. Nước ta còn nghèo, thu nhập quốc dân trên đầu người thấp, nguồn tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị và đầu tư cho giáo dục còn nhiều thiếu thốn, trong lúc nhu cầu của xã hội về du lịch tăng nhanh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thực trạng HĐVĐT cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013 được trình bày trong chương 2 bao gồm các vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, thực trạng phát triển du lịch, NNLDL và đánh giá về thực trạng phát triển NNLDL Việt Nam trong những năm qua, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế.