2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
* Kinh tế thị trường nước ta ở trình độ thấp: TNCs vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Để đầu tư và hoạt động đầu tư của TNCs được thuận lợi thì phải có môi trường đầu tư đồng dạng, có thị trường phát triển tương ứng, đảm bảo cho các yếu tố, các khâu của quá trình tái sản xuất có đủ
điều kiện để hoạt động bình thường . Một vấn đề quan trọng nữa là sự ổn định
đồng bộ của thị trường. Bởi trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra những chấn động, đặc biệt là sự chấn động về tỷ giá, giá cả hàng hoá, tỷ lệ lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng thấp…Đó chính là biểu hiện của sự rối loạn thị trường kinh doanh đe doạ đến lợi ích của đa số các nhà đầu tư. Như vậy khó có thể làm yên lòng họ. Do đó, muốn thu hút đầu tư có hiệu quả, nước sở tại cần quan tâm đến cơ chế thị trường và thiết lập thị trường đồng bộ.
Những năm đổi mới vừa qua nước ta đã thu hút được những thành công bước đầu từ nền kinh tế thị trường nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Thị trường trong nước chưa hoàn chỉnh và kém phát triển. Thị trường hàng hoá dịch vụ còn hẹp, có nhiều biểu hiện tiêu cực, sức mua kém. Thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ mới manh nha, cung về sức lao động lành nghề nhỏ hơn cầu, trong khi cung về sức lao động giản đơn vượt cầu quá xa. Tình trạng vừa thiếu, vừa thừa lao động đã làm cho thị trường sức lao động mới manh nha đã có những biểu hiện thiếu lành mạnh. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn cũng chưa phát triển đúng với tiềm năng.
Trình độ sơ khai của kinh tế thị trường nước ta chưa đủ đảm bảo cho môi trường đầu tư thuận lợi, chưa thực sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với TNCs. Sự yếu kếm này dang đặt ra thách thức lớn đối với chính sách thu hút TNCs vào đầu tư kinh doanh ở nước ta.
*Đối tác Việt Nam còn ở trình độ thấp: Các đối tác tại Hà Nội hiện nay chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, song trình độ năng lực của các doanh nghiệp này còn yếu kém. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành công nghiệp có quy mô nhỏ lại manh mún. Qua gần 5 năm thực hiện quyết định số 90 và 91/TTg của thủ tướng chính phủ về thành lập
các tổng công ty và thí điểm xây dựng các tập đoàn kinh tế, nhiều công ty đã phát huy được vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế, thu hút
được vốn đầu tư nước ngoài, có vị thế trong giao dịch buôn bán cả trong và ngoài nước. Nhưng chưa có tổng công ty nào thực sự trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, có sức cạnh tranh tương xứng với TNCs.
Nhìn chung, năng lực sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, Việc tổ chức sản xuất kinh doanh còn nhiều bất cập, chưa tiến kịp với yêu cầu phát triển chung của đất nước. Năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, cơ cấu mặt hàng đơn điệu. Chi phí sản xuất tăng cao. Trong khi đó tốc độ đổi mới công nghệ, sắp xếp lại sản xuất, đổi mới doanh nghiệp, cổ phần hoá,... đều tiến hành chậm. Sự tự thân vận động và nỗ lực trong kinh doanh của đa số các doanh nghiệp chưa cao. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước, không ý thức được về sự thách thức gay gắt của cạnh tranh quốc tế là hiện tượng phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Với quy mô nhỏ bé, lại yếu kém về năng lực tổ chức sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam chưa trở thành các đối tác đủ tầm để TNCs trông cậy. Đây cũng là khó khăn trở ngại không nhỏ mà chúng ta cần phải phấn đấu để nhanh chóng vượt qua.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Của Các Tncs Trong Thời Gian Qua Tại Hà Nội.
- Tỷ Trọng Loại Hình Đầu Tncs Vào Hà Nội Năm 2007
- Đánh Giá Kết Quả Hoạt Động Của Tncs Trong Thời Gian Qua Tại Hà Nội.
- Hoạt động của công ty xuyên quốc gia ở Hà Nội - 10
- Một Số Giải Pháp Cụ Thể Để Thúc Đẩy Hoạt Động Của Tncs Tại Hà Nội.
- Hoạt động của công ty xuyên quốc gia ở Hà Nội - 12
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
*Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn nhiều bất cập: Cơ cấu kinh tế tại Hà Nội còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được những thế mạnh và những lợi thế so sánh của từng ngành. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước chưa phát huy một cách có hiệu quả. Một mặt, cơ chế thị trường chưa phát huy
được đầy đủ tính tự điều tiết của nó. Mặt khác, hệ thống quản lý của nhà nước cũng đã bộc lộ rõ năng lực quản lý không tương xứng. Sự bất cập này thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, các vấn đề tài chính, tiền tệ, ngân hàng chưa lành mạnh. Hệ thống thể chế thị trường vừa mới mở ra, nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng; chính sách chưa đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, nhất quán, còn chồng chéo và thường ở mức độ là các giải pháp tình thế, không có tính ổn định lâu dài. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài còn thiếu đồng bộ. Một số văn bản dưới luật ban hành chậm gây khó khăn cho thực hiện.
Việc vận dụng luật pháp, chính sách còn có hiện tượng tuỳ tiện. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vừa có hiện tượng buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự yếu kém này đã gây lo ngại cho TNCs.
Tổ chức bộ máy còn yếu kém, nhiều phiền hà, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của các chức danh được
đảm nhiệm đã dẫn đến hiệu quả quản lý thấp. Nhất là đối với các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài, tuy đã được phân cấp rõ ràng, nhưng vẫn còn sự trùng lặp về chức năng. Việc thực hiện xét duyệt dự án triển khai còn chậm, quản lý các hoạt động đầu tư chưa chặt chẽ.
Những yếu kém trên đã dẫn đến môi trường đầu tư chưa được lành mạnh, chưa có sức hấp dẫn cao đối với TNCs. Điều đó đặt ra vấn đề hết sức cấp bách là cần phải tiếp tục đổi mới cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế và bộ máy quản lý, điều chỉnh thể chế và luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tương thích với những quy tắc, thông lệ quốc tế.
*Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém: Hạ tầng vật chất - kỹ thuật tại Hà Nội những năm qua đã được chú ý phát triển nhưng đến nay vẫn còn khoảng cách khá xa so vơi Thủ đô các nước trong khu vực. Ngoài một số tiến bộ đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông, nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém. Đó cũng là trở ngại lơn đối với việc thúc đẩy hoạt động của TNCs.
Chương 3
Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hoạt động của TNCs tại Hà nội
3.1. Phương hướng nhiệm vụ cơ bản nhằm nâng cao hoạt động của Nội TNCs tại Hà Nội.
Hướng tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, kế thừa những thành tựu phát triển đã đạt được, thành phố Hà Nội đang hướng tới mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Hà Nội đang xây dựng phương án cao phấn đấu tăng trưởng GDP giai đoạn 2008-2010 phải đạt 12-13%. Theo đó, tổng đầu tư xã hội phải tăng bình quân 25-30%/ năm, trong đó, vốn FDI cần huy động từ 2 đến 2,5 tỷ USD vốn đầu tư thực hiện trên tổng vốn đăng ký đầu tư từ 4 đến 5 tỷ USD. Để thực hiện mục tiêu trên, thành phố Hà Nội cần tạo điều kiện để TNCs hoạt động có hiêu quả, Vì vậy chúng ta cần xác định một số phương hướng và nhiệm vụ cơ bản sau.
3.1.1. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ hoà bình hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Chủ động và tích cực hội nhập, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt nam là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.Bối cảnh quốc tế và tình hình quốc tế đang có nhiều yếu tố thuận lợi mới tác động tích cực tới hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động thu hút FDI nói riêng. Tình hình xã hội của nuớc ta tiếp tục ổn định. Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng với việc tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới trong đó có đề ra nhiệm vụ: “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong năm năm. Mở rộng lĩnh vực địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng
vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo ra sự chuyển biến về số lượng và chất lượng hiệu quả nguồn vốn FDI”[11, tr. 205]. Từ đó đã tiếp tục củng cố niềm tin của cộng đồng đầu tư quốc tế, thúc đẩy gia tăng dòng vốn FDI. Môi trường pháp lý trong đầu tư kinh doanh đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, nhiều biện pháp
được tiến hành nhằm hạn chế và khắc phục tình trạng yếu kém của kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm cho tính xã hội của lực lượng sản xuất vượt khỏi biên giới quốc gia, mở rộng ra trên phạm vi quốc tế, làm cho phân công lao động quốc tế trở nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và phát triển với tốc độ rất nhanh. Công nghệ thông tin phát triển là công cụ quan trọng làm cho toàn bộ thế giới
được kết nối với nhau, điều này đã và đang đặt ra cho vai trò của nhà nước trong quản lý các sản phẩm đảm bảo cho cuộc sống con người.
Lượng FDI của TNCs vào Hà Nội gia tăng trong giai đoạn tới, dự báo này được đưa ra trên cơ sở như: Dòng vốn FDI có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, ngoài sự gia tăng FDI thì tại thủ đô Hà Nội có sự ổn định về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi tạo được niềm tin cho các nhà
đầu tư.
Mặt khác, nền kinh tế mới nổi ẩn chứa nhiều tiềm năng phát triển, đó là
điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nên triển vọng tăng vốn và thu hút thêm
đầu tư là khả quan. FDI của TNCs thường gắn với các nghành công nghệ cao và sản phẩm phức tạp nhưng với sự trưởng thành của Việt Nam thì chúng ta có các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho TNCs tăng trưởng. Đến năm 2020, khả năng lĩnh vực dịch vụ phát huy được lợi thế cạnh tranh về kinh nghiệm, kỹ năng quản lý đòi hỏi công nghệ cao mà chúng ta chưa có thế mạnh sẽ là hướng cuốn hút để thu hút FDI của TNCs.
Mục tiêu của CNH - HĐH ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra
quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống về vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế xã hội năm năm (2006-2010): “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Gĩư vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị trí của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”. [11, tr. 186]
Để thực hiện mục tiêu trên, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI tập trung mọi nguồn lực để đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Do vậy, Đảng và nhà nước đã đặt ra những định hướng chính sách nhằm tăng cường huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế.
3.1.2. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp, sử dụng công nghệ cao ở TNCs.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư và phát triển toàn xã hội. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến về số lượng và chất lượng hiệu quả nguồn vốn FDI.
Cần có định hướng thu hút FDI đi đôi với thu hút công nghệ để chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tiến bộ hơn. Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá,
đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, tạo ra nguyên liệu tại chỗ cho những mặt hàng xuất khẩu khỏi phải sử dụng nguyên liệu nhập khẩu.
Tăng cường hợp tác liên kết, đưa các ngành công nghiệp và xây dựng nước ta hội nhập với khu vực và quốc tế, trước hết là thu hút mạnh đầu tư và công nghệ nguồn của các công ty đa quốc gia tham gia phát triển công nghiệp và xây dựng Thủ đô. Đồng thời đẩy mạnh thu hút FDI vào nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển khu vực dịch vụ, đây là lĩnh vực rộng lớn. Nhìn chung các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ đều hướng đến mục tiêu là từng bước mở cửa thị trường dịch vụ và thực hiện chế độ không phân biệt đối xử với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo lộ trình nhất định.
3.1.3. Mở ra các hình thức đầu tư mới để thu hút đầu tư của TNCs.
Cho phép TNCs tham gia vào lĩnh vực dịch vụ vì số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này gần đây ở nước ta tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt sau khi đã là thành viên chính thức của WTO nước ta nên áp dụng các hình thức đầu tư mới như mở rộng thị trường chứng khoán, cho phép TNCs thực hiện hình thức sát nhập xuyên lục địa.
3.1.4. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá và có quyền kiểm soát, điều hành doanh nghiệp nếu nắm giữ trên 10% cổ phần doanh nghiệp, cho phép các tổ chức cá nhân nước ngoài
được mua nhận khoán kinh doanh, thuê lại các doanh nghiệp quy mô nhỏ kinh doanh kém hiệu quả. Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài; thu hẹp những lĩnh vực hạn chế đối với đầu tư nước ngoài; tăng cường đầu tư dưới dạng BOT trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị.
3.2. Một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động của TNCs tại Thủ đô Hà Nội.
3.2.1. Một số giải pháp chung.
Thứ nhất, chủ động thu hút đầu tư của TNCs.
Chủ động trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài là yếu tố quyết định
đến hiệu quả hoạt động của lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Có nâng cao tính chủ
động thì mới tạo ra được môi trường đầu tư hấp dẫn vào những mục tiêu đã xác định trước và mới hạn chế được sự bị động trong việc thu hút đầu tư, làm cho việc thu hút đạt được hiệu quả cao và có ý nghĩa. Tính chủ động phải được thể hiện thông qua việc chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và bố trí các dự án theo định hướng phát triển của cơ cấu kinh tế.
Mục tiêu của thu hút đầu tư của TNCs là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế. Do đó, chiến lược thu hút đầu tư của TNCs phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược đó, căn cứ vào thực lực và khả năng của từng giai đoạn cụ thể để có định hướng đầu tư vào các nghành, lĩnh vực và vùng được ưu tiên. Cùng với việc xây dựng kế hoạch định hướng các nhà đầu tư, việc xây dựng các dự án khả thi là cần thiết để chủ động kêu gọi đầu tư.
Mục tiêu chiến lược thu hút đầu tư của TNCs còn là cơ sở để định hướng cho việc tạo lập môi trường đầu tư. Việc xây dựng khung pháp lý, chính sách khuyến khích cũng nhằm mục đích đảm bảo thực hiện các mục tiêu.
Để chủ động, ngoài việc tạo lập và xây dựng và tạo lập môi trường đầu tư cần có chiến lược kế hoạch cụ thể. Đặc biệt, cần chủ động tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư cũng như lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp tạo ra đối tác tin cậy khi để TNCs lựa chọn khi vào liên doanh
Thứ hai, cần có sự nỗ lực chung của nhà nước và các doanh nghiệp trong việc phát triển kinh tế Thủ đô Hà Nội.