Hoạt động của công ty xuyên quốc gia ở Hà Nội - 10

Sự hấp dẫn đối với TNCs không chỉ ở môi trường đầu tư được tạo lập, mà còn phải có được các doanh nghiệp có năng lực kinh doanh, nơi tin cậy để họ bỏ vốn cùng đầu tư sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, cần có sự kết hợp chung của nhà nước và các doanh nghiệp.

Nhà nước cần thực hiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, “sân chơi” thuận lợi vừa kích thích các doanh nghiệp trong nước nỗ lực vươn lên, vừa thu hút đầu tư của TNCs vào các lĩnh vực ưu tiên theo định hướng của nhà nước. Các doanh nghiệp cần phấn đấu và hoàn thiện, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất, kinh doanh của mình, nâng cao sức cạnh tranh và trở thành đối tác có tiềm lực, có vị thế bình đẳng, không rơi vào thế bị động, bất lợi lệ thuộc trong quan hệ đàm phán, hợp tác với TNCs, vươn lên để từng bước đầu tư ra nước ngoài, thực hiện xuyên quốc gia hoá trong kinh doanh. Chính các doanh nghiệp trong nước phải biến sự nỗ lực của nhà nước thành hiện thực. Sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước để có quan hệ bình đẳng được với TNCs sẽ làm cho nền kinh tế phát triển độc lập tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài. Nhà nước không những cần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, mà còn là nguời bảo vệ cho quyền lợi các doanh nghiệp, trên cơ sở đó bảo vệ quyền lợi quốc gia, dân tộc. Sự nỗ lực chung của Nhà nước và doanh nghiệp, chính là sự nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển của đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thứ ba, hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước.

Cơ chế quản lý và năng lực quản lý của nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường đầu tư. Bởi vì, mọi hoạt đông đầu tư đều có liên quan trực tiếp với cơ chế điều hành và quản lý trực tiếp của nước chủ nhà các công ty xuyên quốc gia đều phải làm việc trực tiếp với bộ maý quản lý các cấp. Với cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, được thực hiện bởi bộ máy quản lý mạnh sẽ tạo được sự tin tưởng của TNCs vào sự ổn định cởi mở của môi trường đầu tư. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý chưa được hoàn thiện và

phát huy đầy đủ vai trò của nó, bộ máy quản lý của nhà nước yếu kém sẽ là trở lực lớn đối với mục tiêu thu hút đầu tư, nhất là đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. TNCs là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, hoạt động trên phạm vi quốc tế theo những quy tắc, thông lệ, thể chế quốc tế, khi đầu tư vào nước nào họ rất cần một môi trường đầu tư đồng dạng để hoạt động. Vì vậy, các nước muốn thu hút được đầu tư nước ngoài đều cần quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, bộ máy nhà nước của mình để vừa tăng sức hấp dẫn đầu tư, vừa thực hiện quản lý hoạt động đầu tư của nước ngoài một cách hiệu quả nhất.

Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã có những tiến bộ trong công tác

điều hành quản lý đất nước nói chung và trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng.

Cơ chế quản lý đầu tư ngày càng thông thoáng hơn. Tuy nhiên, sự cải tiến đổi mới này chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực quản lý đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều ách tắc cản trở. Vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao năng lực quản lý của nhà nước là những vấn đề cấp thiết hiện nay.

Đổi mới cơ chế quản lý là tạo ra sân chơi hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia. Nền kinh tế thị trường nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong những năm qua đã tạo thêm động lực cho sự phát triển, khơi dậy được tính năng động của nền kinh tế. Chúng ta đang chuyển dần từ nền kinh tế thị trường sơ khai lên kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, điều cần thiết là phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đó là việc tạo điều kiện để phát huy hiệu quả điều tiết của cơ chế thị trường, phát triển thị trường đồng bộ, đảm bảo cho sự vận động một cách trôi chảy các yếu tố vốn, kỹ thuật công nghệ, lao động của thị trường. Vai trò quản lý của nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động điều tiết của nhà nước đối với thị trường. Đối với thị trường đầu tư có tính đặc thù phải vừa đảm bảo được thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia, vừa phải quản lý được hoạt động của họ nên phải có sự thông minh mềm dẻo trong điều tiết. Điều này chỉ có thể thực hiện được

khi chúng ta có một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cơ chế quản lý thích hợp và bộ máy quản lý có năng lực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Luật đầu tư ở nước ngoài tại Việt Nam có thể coi là luật đầu tư thông thoáng, tuy nhiên còn nhiều văn bản dưới luật có sự chồng chéo, mâu thuẫn. Vì vậy, cần nhanh chống rà soát, loại bỏ cũng như bổ sung, sửa đổi luật, các quy định, thể chế pháp luật được thực thi có hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, cần thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, tăng cường giám sát, sử lý nghiêm khắc và kịp thời các vi phạm pháp luật; việc kiện toàn và nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước, nhất là bộ máy quản lý nhà nước về

đầu tư đang là những vấn đề đòi hỏi bức bách hiện nay.

Hoạt động của công ty xuyên quốc gia ở Hà Nội - 10

Bộ máy quản lý đầu tư của nước ta trong những năm qua đã từng bước

được cải tiến, song còn nhiều hạn chế, sơ hở trong quá trình tiếp nhận, thẩm

định, xét duyệt, cấp giấy phép đăng ký, thủ tục sau giấy phép và cả việc quản lý hoạt động đầu tư. Trong thời gian tới, việc xây dựng bộ máy quản lý đầu tư cần được cải thiện theo hướng tinh giản, gọn nhẹ nhưng đảm bảo nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy này. Thực hiện nguyên tắc một cửa, một đầu mối cho toàn bộ quá trình từ tiếp nhận đến việc cấp giấy phép đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ đầu tư để kịp thời hỗ trợ điều chỉnh hoạt động

đầu tư khi cần thiết. Việc phân cấp, cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động

đầu tư là cần thiết song cần có cơ chế điều phối, kiểm soát kế hoạch từ một trung tâm là bộ kế hoạch và đầu tư để đảm bảo quản lý thống nhất, hạn chế những tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh. Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, cập nhật thông tin, nắm chắc tình hình hoạt động của TNCs tại Hà Nội để có những quyết định quản lý kịp thời, thống nhất. Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài cũng như đội ngũ cán bộ làm việc trực tiếp với TNCs.

Thứ tư, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật

Kết cấu hạ tầng kỹ thuật được coi là một hệ thống “xương cốt” của nền kinh tế để thu hút, tiếp nhận đầu tư của TNCs. Trong điều kiện sản xuất và

tiếp nhận thị trường hiện nay. Sự phát triển của kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật là điều kiện tiên quyết để phát triển kỹ thuật công nghệ cao, đáp ứng nhanh yêu cầu đòi hỏi của thị trường. Với một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại của giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ, thương mại, văn hoá giáo dục, thông tin và những thể chế vận hành nền kinh tế sẽ

đảm bảo cho TNCs thực hiện di chuyển dòng vốn nhanh, ứng phó kịp thời với những biến động nhanh chóng của các yếu tố trên thị trường, tránh được những thiệt hại về những chi phí trực tiếp do kết cấu hạ tầng vật chất kém gây ra. Vì vậy, TNCs thường ưu tiên hơn khi lựa chọn đầu tư vào những nơi có kết cấu hạ tầng vật chất đồng bộ và hiện đại.

Kết cấu hạ tầng vật chất của Thủ đô tuy đã được đầu tư phát triển, nhưng đến nay vẫn còn ở tình trạng yếu kém, lại thiếu đồng bộ, chưa thích hợp cho hoạt động đầu tư của TNCs. Yêu cầu đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật của Hà Nội rất bức bách. Tuy nhiên đầu tư vào phát triển một kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ đòi hỏi những khoản vốn, kỹ thuật vô cùng to lớn, vốn lại luân chuyển kém, lợi nhuận không cao, tư nhân không

đủ khả năng đầu tư và cũng không muốn đầu tư vào lĩnh vực này nên nhà nước phải gánh vác. Tiềm lực tài chính của nhà nước tuy to lớn nhưng không thể dồn toàn bộ vào xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và toàn diện được. Do đó,

đòi hỏi phải có giải pháp linh hoạt để vừa tiếp nhận đầu tư nước ngoài, vừa

đảm bảo hoạt động tài chính bình thường của mình.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, một trong những mâu thuẫn nổi bật là kết cấu hạ tầng vật chất chưa phát triển nhưng tiềm năng kinh tế chưa cho phép chi những khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Giải pháp thích hợp hiện nay là: Cố gắng giải quyết tốt những mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức đầu tư vào các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra còn phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, và ngắn hạn để huy

động các tiềm năng của toàn dân cho xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng

vật chất kỹ thuật. Trong thời gian tới, để phất triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật Thủ đô cần chú ý một số điểm sau:

- Các dự án công trình xây dựng kết cấu hạ tầng phải là công trình thiết yếu, có tác dụng trên phạm vi rộng lớn với nhiều nghành, lĩnh vực, có tính mấu chốt quyết định sự phát triển chung của Hà Nội.

- Cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn

để xây dựng các quy mô vừa và nhỏ.

“Kết cấu hạ tầng phần mềm” như hệ thống dịch vụ, thương mại, văn hoá giáo dục và các thể chế vận hành nền kinh tế còn nhiều bất cập. Chất lượng hoạt động của các loại dịch vụ không cao, hiệu quả thấp. Hoạt động thương mại, du lịch yếu kém cả về cơ sở vật chất, điêù kiện và phương thức hoạt động. Sự yếu kếm về năng lực tiếp thị, nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế… đã gây không ít khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Văn hoá, giáo giục, y tế đã có bước phát triển nhưng chưa ngang tầm với thời đại,

ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao chất lượng lao động; đã gây những trở ngại không nhỏ trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, giảm sự hấp đẫn đối với các công ty xuyên quốc gia.

+ Để nâng cao chất lượng hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, văn hoá, giáo dục nước ta cần quan tâm xây dựng thể chế chính trị, kinh tế theo hướng khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Quan tâm hơn nữa đến giáo dục. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và pháp luật để nâng cao giác ngộ chính trị tư tưởng cho người lao động, phát huy quyền dân sinh, dân chủ của họ. Nâng cao vai trò đòn bẩy kinh tế của công cụ tài chính tiền tệ bằng việc lành mạnh hoá hệ thống này. Các dịch vụ thương mại, thông tin, tư vấn phải được đổi mới và phát triển đẩm bảo những điêù kiện cần thiết

để hoạt động đầu tư của TNCs được tiến hành thuận lợi

Thứ năm, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa tại Hà Nội.

Đối tác đầu tư trong nước có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài chính là một nhân tố hấp dẫn đối với TNCs. Ngoài việc tìm hiểu thị trường,

tình hình chính trị xã hội, các nhà đầu tư nước ngoài nói chung rất quan tâm

đến việc tìm đối tác đầu tư, vì khi đầu tư vào một nước họ thường gặp các khó khăn như phong tục, tập quán, luật pháp… mặt khác trong hợp tác kinh doanh, các nhà đầu tư đều muốn giảm bớt vốn để hạn chế rủi ro, nên các công ty xuyên quốc gia thường tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà, để giảm bớt khó khăn và chia sẻ rủi ro nếu có.

Thực tiễn những năm qua cho ta thấy, ở Thủ đô Hà Nội trong các liên doanh với nước ngoài, nếu đối tác bên phía Việt Nam có năng lực, có đóng góp thì thường thu hút được thêm vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng dự án đầu tư, không bị chèn ép bởi phía nước ngoài và đã có sự học tập tự vươn lên. Ngược lại, thì quy mô bị thu hẹp, phải chuyển hình thức đầu tư hoặc phải rút giấy phép. Để tạo lập các công ty trong nước thực hiện liên doanh, hợp tác đầu tư với TNCs một cách có hiệu quả, chúng ta cần phải xây dựng và phát triển các đối tác đầu tư trong nước thích hợp trong mối quan hệ kinh tế với các đối tác nước ngoài, trong đó có TNCs hoạt động tại địa bàn Hà Nội. Chúng ta cần phải tiếp tục củng cố và phát triển các doanh nghiệp, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích đầu tư phát triển ở mọi thành phần kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ để họ vươn lên trở thành những doanh nghiệp mạnh thực hiện liên doanh, liên kết được với TNCs.

Cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp phải có sự nỗ lực cao, phấn đấu vươn lên. Điều đó được thể hiện bằng ý chí, quyết tâm đổi mới cơ chế quản lý

Tự chủ, năng động sáng tạo trong hoạt đông sản xuất kinh doanh để trở thành những đối tác tương xứng, liên doanh có hiệu quả với TNCs.

Thứ sáu, tăng cường phát triển nguồn nhân lực.

Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ bức xúc để nâng cao chất lượng lao động, đảm bảo tính bền vững của phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo

điều kiện để gia tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút của TNCs.

Với một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp có năng lực, các chuyên gia quản lý giỏi sẽ rất thuận lợi cho các công ty xuyên quốc gia thực hiện hợp tác liên doanh. Nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho việc tiếp thu công nghệ mới, làm chủ kỹ thuật và quy trình công nghệ sẽ giúp cho TNCs sử dụng lao động tại chỗ và thực hiện triển khai lao động tiên tiến. Đối với chúng ta một trong những nguy cơ phải đương

đầu hiện nay là nguy cơ về tụt hậu, trong đó tụt hậu về giáo giục và đào tạo là nguy hiểm nhất và sẽ phải trả giá đắt nhất nếu không có sự nỗ lực để vượt qua. Trong hợp tác quốc tế, lợi thế so sánh sẽ thuộc về nước nào có được lực lượng lao động có học vấn cao, có khả năng nắm vững công nghệ mới và có kỹ năng nghề nghiệp thích hợp với đòi hỏi của các ngành nghề mới. Hiện nay, nước ta

đang thiếu một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, đội ngũ các doanh nghiệp thạo kinh doanh trong cơ chế thị trường và đội ngũ chuyên gia quản lý có trình độ chuyên môn cao. Nhất là đối với việc mở rộng và tăng cường hợp tác đầu tư với TNCs thì sự thiếu hụt ngày càng lớn.

Từ thực tế trên, để phát triển nguồn nhân lực cho cả trước mắt và lâu dài, công tác giáo dục đào tạo ở nước ta phải có chiến lược, kế hoạch cụ thể, sát hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, coi giáo dục là quốc sách hàng

đầu như Đảng và nhà nước ta đã đề ra.

Phát triển nguồn nhân lực còn là giải pháp đảm bảo tính bền vững của phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo điều kiện để tăng tính hấp dẫn để thu hút FDI của TNCs. Do vậy, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

* Cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Con người phải biết tự đào tạo, luôn tiếp thu tri thức mới, có năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm thì mới có thể thích nghi và làm chủ được kinh tế tri thức. Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức

đồng thời góp phần quảng bá tri thức. Vì vậy người ta coi giáo dục là ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức. Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, thì trước hết nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi hiền tài là nguyên khí quốc gia. Tạo điều kiện làm việc thuận lợi,

phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý kinh doanh. Đẩy nhanh giáo dục phổ thông trung học, nâng số năm bình quân trong độ tuổi lao động lên 12 năm vào trước năm 2020. Cải cách triệt để và sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mới.

* Đầu tư thích đáng vào đào tạo và nâng cao đội ngũ cán bộ, công nhân làm việc trong lĩnh vực FDI: Xây dựng quy chế cán bộ Việt Nam tham gia hội đồng quản trị và tham gia quản lý doanh nghiệp liên doanh. Tranh thủ mọi nguồn kinh phí từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để đưa cán bộ đi du học nước ngoài và thành lập các trung tâm nghiên cứu lớn ở Thủ đô Hà Nội. Có cơ chế đãi ngộ thoả đáng và phương pháp sử dụng cán bộ để huy động được tiềm năng kỹ thuật cao và lao động chất xám của đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia, trí thức. Thúc đẩy tạo điều kiện để công nhân nâng cao tay nghề.

* Thu hẹp khoảng cách giữa yêu cầu của doanh nghiệp và đào tạo ở nhà trường. Trong điều kiện kinh tế mở hiện nay thì thế hệ trẻ có tiến bộ nhanh hơn thế hệ trước; đa phần biết sử dụng công nghệ thông tin và vi tính thành thạo. Chính điều này đã đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp. Tuy nhiên TNCs thường xem kinh nghiệm như là một điều kiện để

được tuyển dụng. Đối với các sinh viên mới ra trường thì đây quả là một điều kiện khó có thể đáp ứng được. Vì vậy, một hình thức hỗ trợ đào tạo thông thường nhất để giúp cho sinh viên có kinh nghiệm làm việc là tạo điều kiện cho họ được thực hành, thực tập tại các doanh nghiệp nhằm giúp họ củng cố và bổ xung kiến thức đã học.

* Tăng cường các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục, động viên

để nâng cao đạo đức thái độ lao động: Người lao động ở nước ta chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng làm việc theo nhóm, ngại phát huy sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Rất nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã phải mất thời gian hàng tháng chỉ để đào

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 31/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí