Mặc dù đã có những ví dụ về các công ty đa quốc gia tìm kiếm thị trường nước ngoài (ví dụ, Colt Firearms, Singer, Coca-Cola, Philips, và Imperial Chemicals), nhưng phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thông qua mua lại những tài sản hữu hình như nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc ở nước ngoài. Loại hình đầu tư này cơ bản là dòng chảy một chiều – từ Mỹ tới Tây Âu – cho mãi tới những năm gần đầu thập niên 60 của thế kỷ 19. Sau đó, đầu tư ngược chiều bắt đầu, chủ yếu là các công ty Tây Âu mua lại các công ty của Mỹ. Gần đây, các công ty Nhật đã đầu tư vào Mỹ và Tây Âu, chủ yếu để đối phó với những rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường này.
- Tối thiểu hóa chi phí
Người tối thiểu hóa chi phí là loại hình doanh nghiệp tương đối mới tham gia kinh doanh quốc tế. Những doanh nghiệp này tìm kiếm và đầu tư vào những quốc gia có chi phí sản xuất thấp (Ví dụ như Hồng Kông, Đài Loan và Ireland) nhằm duy trì khả năng cạnh tranh về chi phí cả ở trong và ngoài nước. Phần lớn các công ty này thuộc ngành công nghiệp điện tử. Ví dụ như các công ty Texas Instruments, Atari và Zenith.
2.3 Các công ty đa quốc gia luôn tận dụng cơ chế chuyển giao nội bộ để thu lợi nhuận nhiều hơn
Từ giác độ quản lý tài chính, một trong những đặc điểm của công ty đa quốc gia khác biệt với tập hợp các công ty quốc gia thường hợp tác khách quan với nhau, đó là khả năng của nó trong việc chuyển tiền và lợi nhuận giữa các chi nhánh hoặc giữa công ty mẹ và chi nhánh thông qua các cơ chế chuyển giao nội bộ. Có được điều đó là do các công ty đa quốc gia hoạt động trong hệ thống tài chính quốc tế chứ không phải hệ thống tài chính của một nước cụ thể. Những cơ chế này bao gồm chuyển giao giá cả về hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi trong nội bộ, các khoản tín dụng liên công ty, thanh
toán lợi tức cổ phần, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại các khoản thanh toán liên công ty, phí và các khoản tiền phải trả cho bản quyền.
Các công ty đa quốc gia có sự tự do đáng kể trong việc lựa chọn các kênh tài chính thông qua đó các quỹ và lợi nhuận được phân bổ hoặc di chuyển. Ví dụ các bản quyền và nhãn hiệu thương mại có thể được bán thẳng hoặc chuyển giao để thu các khoản tiền về bản quyền. Tương tự như vậy, công ty đa quốc gia có thể chuyển lợi nhuận và tiền từ đơn vị này sang đơn vị khác thông qua việc điều chỉnh giá cả chuyển giao đối với các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ liên công ty. Dưới giác độ các dòng đầu tư, vốn có thể được chuyển ra ngoài nước dưới hình thức tín dụng với nhiều lựa chọn khác nhau về lãi suất, đồng tiền sử dụng, và kế hoạch thanh toán. Các công ty đa quốc gia có thể sử dụng những kênh khác nhau này, từng kênh hoặc kết hợp với nhau, để chuyển giao quỹ trên bình diện quốc tế, phụ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng quốc gia mà nó đặt chi nhánh. Hơn thế, trong các giới hạn của luật lệ khác nhau của các nước và dưới giác độ quan hệ giữa một chi nhánh nước ngoài với chính phủ chủ nhà của nó thì những dòng tiền này có thể có lợi thế hơn so với những dòng có được trong quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp độc lập.
III. Quản trị tài chính công ty đa quốc gia
1. Vai trò của quản trị tài chính công ty đa quốc gia
Quản trị tài chính về mặt truyền thống có hai chức năng cơ bản là tài trợ và đầu tư. Chức năng thứ nhất được gọi là các quyết định tài trợ bao gồm việc tạo ra các quỹ từ các nguồn nội bộ hoặc các nguồn bên ngoài cho công ty với chi phí dài hạn thấp nhất có thể. Quyết định đầu tư được coi là việc phân phối các quỹ theo thời gian, theo cách thức nhằm tối đa hóa của cải của các cổ đông. Tuy nhiên, nhiều vấn đề và nhiều hoạt động quản trị tài chính đa quốc gia không thể phân loại một cách rõ ràng như vậy.
Các dòng vốn bên trong của doanh nghiệp như thanh toán vốn vay thường phải được đảm bảo bởi chính MNC để tiếp cận và sử dụng các khoản quỹ đã vay, ít nhất là về mặt lý thuyết. Những dòng tiền khác như thanh toán lợi tức cổ phần có thể được thực hiện để giảm rủi ro ngoại hối hoặc giảm thuế. Cấu trúc vốn và các quyết định tài trợ khác thường được thúc đẩy bởi mong muốn giảm rủi ro đầu tư cũng như chi phí tài trợ. Hơn thế, quản lý rủi ro ngoại hối liên quan tới cả các quyết định tài trợ và các quyết định đầu tư. Sự kết hợp những quyết định này một cách hợp lý là yếu tố quyết định việc tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp đối với các cổ đông của nó.
Các nhà điều hành tài chính trong các công ty đa quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn đến từ yếu tố “đa quốc gia” của nó. Những khó khăn này bao gồm rủi ro ngoại hối, rủi ro lạm phát, những khác biệt giữa các nước; các thị trường tiền tệ quốc tế, cùng với khả năng tiếp cận hạn chế; sự kiểm soát tiền tệ, và rủi ro chính trị như sự tước đoạt từ từ và bất ngờ.
Khi xem xét các đặc trưng riêng biệt của quản trị tài chính đa quốc gia, có thể hiểu rằng công ty thường nhấn mạnh đến các rủi ro kinh tế và chính trị phải đối mặt khi ra nước ngoài. Tuy nhiên, công ty phải chấp nhận những rủi ro đó nếu muốn giành lợi thế bằng cách trở thành công ty đa quốc gia.
Khả năng di chuyển nhân lực, tiền và nguyên liệu trên cơ sở toàn cầu giúp cho sự hợp tác của công ty đa quốc gia có hiệu quả lớn hơn là tổng giản đơn các bộ phận hợp thành của nó. Vì hoạt động ở các nước khác nhau, MNC có thể thâm nhập các thị trường tài chính khác nhau để làm giảm tổng chi phí vốn chung, di chuyển lợi nhuận để giảm thuế phải nộp, và tận dụng lợi thế của đa dạng hóa quốc tế về thị trường và địa điểm sản xuất để giảm rủi ro của thu nhập. Các công ty đa quốc gia tuân thủ ngạn ngữ “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” trong lập luận của họ.
2. Nội dung quản trị tài chính công ty đa quốc gia
2.1 Quyết định đầu tư
- Đầu tư trực tiếp
Sự mở rộng toàn cầu của các công ty đa quốc gia đã trở nên phổ biến hơn sau hành động của nhiều Chính phủ nhằm dỡ bỏ các hàng rào khác nhau. Các MNC nhìn chung đầu tư vào các cơ hội kinh doanh ở nước ngoài bằng cách tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nó thể hiện ở việc đầu tư vào các tài sản thực (chẳng hạn như đất đai, nhà xưởng hoặc thậm chí các nhà máy đang hoạt động) ở nước ngoài.
Các MNC tiến hành FDI thông qua liên doanh với các công ty nước ngoài, mua lại các công ty nước ngoài, và hình thành các chi nhánh mới ở nước ngoài. Bất kỳ dạng nào của FDI cũng có thể sinh ra thu nhập cao khi được quản lý tốt. Tuy nhiên, FDI đòi hỏi một mức đầu tư đáng kể và do đó có thể đặt một lượng vốn lớn vào rủi ro. Hơn nữa khi việc đầu tư không hoạt động như mong đợi, các MNC không dễ dàng bán các dự án ở nước ngoài mà nó đã tạo ra. Do những đặc trưng về thu nhập và rủi ro này của FDI, các MNC có xu hướng phân tích cẩn thận các lợi ích và chi phí tiềm tàng trước khi thực hiện bất kỳ một dự án FDI nào.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn chung được các MNC xem xét bởi vì nó có thể làm tăng lợi nhuận và nâng cao của cải cho các cổ đông. Có một vài cách trong đó FDI có thể làm tăng thu nhập hoặc giảm chi phí. Phương pháp tối ưu đối với một công ty để thâm nhập vào thị trường nước ngoài phụ thuộc một phần vào các đặc trưng của thị trường. Chẳng hạn, đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Mỹ thông thường ở Châu Âu chứ không phải ở Châu Á là nơi người dân đã quen với việc mua sản phẩm từ Châu Á. Do vậy các hợp đồng chuyển giao hoặc liên doanh có thể phù hợp hơn khi các công ty muốn mở rộng sang Châu Á. Bảng 1 tóm tắt các lợi ích có thể của FDI và giải thích các cách MNC nên sử dụng FDI để giành được những lợi ích này. Hầu hết các
MNC theo đuổi FDI dựa trên những dự tính của họ về việc đầu tư vào một hoặc nhiều các lợi ích tiềm tàng được tóm tắt trên bảng 1.
Bảng 1: Tóm tắt các lợi ích thu được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với MNC
Cách dùng FDI để giành được lợi ích này | |
1. Lôi cuốn các nguồn nhu cầu mới | Thiết lập một chi nhánh hoặc mua lại một đối thủ cạnh tranh trên một thị trường mới |
2. Tham gia vào thị trường trong đó lợi nhuận cao hơn là có thể | Mua lại một đối thủ cạnh tranh mà công ty đã kiểm soát thị trường địa phương của nó |
3. Lợi ích hoàn toàn từ tính kinh tế của quy mô | Lập một chi nhánh ở thị trường mới mà có thể bán các sản phẩm được sản xuất ở đâu đó, điều này cho phép sản xuất tăng lên và hiệu quả sản xuất có thể lớn hơn |
4. Sử dụng các nhân tố sản xuất ở nước ngoài | Thiết lập một chi nhánh ở một thị trường mà có chi phí lao động và đất đai thấp tương đối; bán thành phẩm tới các nước ở đó chi phí sản xuất cao hơn |
5. Sử dụng nguyên liệu thô ở nước ngoài | Thiết lập một chi nhánh ở một thị trường ở đó nguyên liệu thô rẻ và có thể dùng được, bán các thành phẩm tới các nước ở đó nguyên liệu thô đắt hơn. |
6. Sử dụng công nghệ nước ngoài | Tham gia vào một liên doanh để học tập quá trình sản xuất và các hoạt động khác |
7. Khai thác lợi thế độc quyền | Thiết lập một chi nhánh ở một thị trường |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 1
- Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 2
- Phạm Vi Hoạt Động Trải Rộng Trên Nhiều Quốc Gia
- Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 5
- Các Công Ty Đa Quốc Gia Gắn Liền Với Quá Trình Toàn Cầu Hóa
- Kinh Nghiệm Quản Trị Tài Chính Của Một Số Công Ty Đa Quốc Gia Điển Hình Trên Thế Giới
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
trong đó các đối thủ cạnh tranh không thể sản xuất được sản phẩm tương tự; bán các sản phẩm ở nước này. | |
8. Ứng phó với sự thay đổi tỷ giá | Thiết lập một chi nhánh ở một thị trường mới trong đó đồng tiền địa phương yếu nhưng hi vọng sẽ mạnh lên |
9. Đối phó với các hạn chế thương mại | Thiết lập một chi nhánh ở một thị trường trong đó các hạn chế thương mại chặt chẽ hơn sẽ tác động ngược lại mức xuất khẩu của công ty |
10. Đa dạng hóa quốc tế | Thiết lập chi nhánh ở thị trường mà chu kỳ kinh doanh của nó khác với nơi các chi nhánh đang tồn tại |
Nguồn: Nguyễn Hải Tiến (2004), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê.
- Đầu tư gián tiếp
Đối với các công ty đa quốc gia, khi mà thị trường và người tiêu dùng là toàn cầu thì các nhà đầu tư của nước này có thể mua cổ phiếu và trái phiếu của nước khác và ngược lại. Lợi ích của đầu tư quốc tế là rất nhiều, nhưng có thể thấy ngay là một sự đầu tư trọng điểm được rải đều trên phạm vi quốc tế thì nó sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn là khi chỉ tập trung vào thị trường nội địa.
Hệ thống kinh doanh chứng khoán được mở rộng trên phạm vi quốc tế tạo ra khả năng đạt được sự đánh đổi rủi ro, hay nói cách khác là lợi tức cao hơn so với việc chỉ đầu tư vào các chứng khoán một nước. Điều này có nghĩa là mở rộng hệ thống các tài sản sẵn có cho hoạt động đầu tư sẽ tạo ra lợi tức cao hơn với cùng một mức rủi ro, hoặc chịu rủi ro thấp hơn cho cùng một mức lợi tức kỳ vọng. Quan hệ này phát sinh từ nguyên tắc cơ bản của đa dạng
hóa danh mục đầu tư: Đa dạng hóa càng rộng thu nhập càng ổn định và rủi ro càng khuếch tán rộng.
Một nhà đầu tư khôn ngoan nhận thức được rằng việc đa dạng hóa vào các ngành sẽ làm giảm mức độ rủi ro tại một mức lợi tức kỳ vọng nhất định. Mặc dầu vậy, những lợi ích của việc đa dạng hóa này là giới hạn vì tất cả các công ty trong một quốc gia đều ít hay nhiều bị ảnh hưởng của những dao động kinh tế mang tính chu kỳ. Thông qua đa dạng hóa quốc tế - tức là bằng cách đa dạng hóa ra các quốc gia mà chu kỳ dao động kinh tế không trùng nhau hoàn toàn - các nhà đầu tư có thể giảm nhiều hơn nữa sự biến động của các khoản lợi tức. Nói một cách khác, một rủi ro là mang tính hệ thống trong bối cảnh nền một quốc gia có thể là rủi ro không mang tính hệ thống trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu. Ví dụ, cuộc khủng hoảng giá dầu lửa làm tổn thương nền kinh tế Mỹ nhưng lại giúp đỡ nền kinh tế của các nước xuất khẩu dầu lửa và ngược lại. Như vậy sự biến động của những cổ phiếu này lại bù trừ một phần sự biến động của những cổ phiếu khác trong cùng một tổ hợp.
Bên cạnh việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, các nhà quản trị công ty đa quốc gia cũng thường nghĩ đến việc đầu tư vào các thị trường mới nổi. Đó là thị trường chứng khoán tại các nước đang phát triển trong đó có các nước công nghiệp mới. Tại đó thị trường chứng khoán còn non trẻ với một mức lợi tức kỳ vọng cao hơn tại các nước phát triển. Mức lợi tức có thể đạt từ 30- 40%/năm. Phản ứng lại trước những con số như thế này, dòng vốn tư nhân chảy vào các thị trường mới nổi đã tăng từ hơn 10 tỷ USD một năm lên
khoảng 70-90 tỷ USD một năm vào khoảng những năm 19953. Nhưng khả
năng lợi tức cao trên những thị trường mới nổi này đi kèm với các rủi ro nhất định. Để bắt đầu, đây là các thị trường nhỏ, tổng số vốn tập trung tại các thị trường này chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng vốn của thị trường chứng khoán
3 “Những lợi ích của đa dạng hóa quốc tế”, báo Quản lý danh mục đầu tư số 26 năm 1998
thế giới. Vì vậy các thị trường này phải chịu những biến động thường xuyên và thiếu khả năng thanh khoản vốn là những đặc tính thường có của thị trường nhỏ. Các thị trường này cũng phải đối mặt với những rủi ro mang tính đặc thù như: các chính phủ của những quốc gia có thị trường mới nổi tương đối không ốn định, rủi ro của việc quốc hữu hóa các doanh nghiệp, thiếu sự bảo vệ bản quyền, và mối đe dọa của sự biến động giá đột ngột. Tuy nhiên hầu hết các rủi ro này về bản chất là phi hệ thống, cho nên một cách tổng thể, những thị trường mới nổi vẫn có thể làm giảm rủi ro của danh mục đầu tư.
2.2 Quyết định tài trợ
- Quyết định liên quan kết cấu vốn chủ sở hữu/ vốn vay của một công ty đa quốc gia
Các MNC cần nhận thức được mức cân bằng giữa sử dụng nợ và sử dụng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho hoạt động của mình. Lợi thế của sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu sẽ tùy thuộc vào đặc trưng của MNC và đất nước mà MNC thiết lập chi nhánh. Đó là tính ổn định của luồng tiền mặt của MNC, rủi ro tín dụng của MNC, thu nhập của MNC; các hạn chế về cổ phiếu ở nước chủ nhà, lãi suất ở nước chủ nhà, sức mạnh của đồng tiền nước chủ nhà, luật thuế của nước chủ nhà. Các MNC có thể ưa thích sử dụng nhiều nợ khi chi nhánh nước ngoài của họ có lãi suất địa phương thấp, đồng tiền địa phương có xu hướng yếu đi, mức rủi ro quốc gia cao và thuế cao. Bởi vì các đặc trưng rất khác nhau giữa các nước, một số chi nhánh của một MNC có thể có lợi từ một mức độ đòn bẩy tài chính cao, trong khi các chi nhánh khác có thể không.
Một MNC có thể phân tán kết cấu vốn theo từng nước nhưng vẫn đạt được kết cấu tư bản mục tiêu của nó trên một nền tảng vững chắc. Ví dụ sau đây, trong những điều kiện nhất định ở nước ngoài, các công ty đa quốc gia phải có những quyết định phù hợp với động cơ phân tán kết cấu tư bản mục tiêu ở địa phương trong khi vẫn thỏa mãn kết cấu tư bản mục tiêu toàn cầu.