Một Số Giải Pháp Cụ Thể Để Thúc Đẩy Hoạt Động Của Tncs Tại Hà Nội.

tạo tác phong cho công nhân sau đó mới tuyển đến làm việc tại xí nghiệp. Do

đó, người lao động cần trang bị cho mình thói quen lao động mới - lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

* Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. Nâng cao trình độ chuyên môn của công chức nhà nước các cấp lao động tại Hà Nội liên quan đến quản lý và trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ cần có những chính sách đón đầu trong giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, nhất là về kỹ thuật và kỹ năng kinh doanh.

3.2.2 . Một số giải pháp cụ thể để thúc đẩy hoạt động của TNCs tại Hà Nội.

Thứ nhất, trên cơ sở chủ trương nhất quán, trong mỗi lĩnh vực kinh tế, nhất là những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao, quản lý hiện đại, là những ngành kinh tế mà Thủ đô đang có hướng ưu tiên để phát triển cần có chủ trương cụ thể để tạo điều kiện để TNCs hoạt động được thuận lợi. Chúng ta cần có chính sách để tạo điều kiện cho các thế mạnh như chế tạo máy móc, thiết bị viễn thông, dịch vụ tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng… qua đó có chính sách chuyển giao công nghệ phù hợp.

Thứ hai, cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư để TNCs lựa chọn. Hầu hết các chuyên gia trong và ngoài nước đều cho rằng luật Việt Nam cần phải bổ sung thêm một số hình thức đầu tư mới như doanh nghiệp cổ phần có vốn

đầu tư nước ngoài, công ty hợp doanh… Hiện nay xu hướng M&A đang phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là trong thời gian vừa qua. Đây cũng là một trong những hình thức đầu tư nước ngoài khá hiệu quả, nhất là đối với các nước đang phát triển vì thu hút được một lượng vốn lớn hơn nhiều so với việc thành lập các dự án liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cao do được tiếp cận với những kinh nghiệm, kỹ năng quản lý tiên tiến hiện đại từ những nước phát triển. Chúng ta cần tập trung nghiên cứu hình thức đầu tư này, thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua

cổ phần của các doanh nghiệp này để họ được tham gia quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Chú ý đúng mức

đối với những yêu cầu hợp lý của từng TNCs khi họ đầu tư và tham gia hoạt

động kinh doanh, nhằm đảm bảo sự hợp tác cùng có lợi trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền cả Việt Nam đồng thời phù hợp với chiến lược cũng như cơ cấu tổ chức và quản lý của từng TNCs.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Thứ ba, cần duy trì sự ổn định về chính trị, tính nhất quán về đường lối, chính sách, tính minh bạch về luật pháp vì đây là yếu tố hàng đầu mà TNCs quan tâm khi đầu tư vào nước chủ nhà. Do vậy, đòi hỏi phải tiếp tục xử lý những vấn đề còn bất cập trong từng khâu của nền hành chính quốc gia bao gồm cả tình trạng lộng quyền, tham nhũng của một số công chức nhà nước.

Thứ tư, trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự

Hoạt động của công ty xuyên quốc gia ở Hà Nội - 11

án đầu tư được phê duyệt, thành phố nên chủ động tiến hành vận động, xúc tiến một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng TNCs thích hợp.

Thứ năm, tạo điều kiện thuận lợi cho TNCs chuyển đổi, lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp. Tăng cường quản lý việc áp dụng giá chuyển giao giữa TNCs trên địa bàn Thủ đô. Bên cạnh các thông tư, quy định đã ban hành, chúng ta nên có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết và rõ ràng cho từng ngành, từng lĩnh vực thực hiện được việc kiểm soát TNCs thực hiện giá chuyển giao. Việt Nam cần ban hành luật chống giá chuyển giao của TNCs như nhiều nước trên thế giới đã làm.

Thứ sáu, cần nắm bắt được đặc điểm cả TNCs trên địa bàn thủ đô, nhất là các phương thức và nguyên tắc kinh doanh của họ để có đối sách thích ứng. Nhìn chung các nhà kinh doanh trong TNCs đều rất năng động và quyết đoán trong kinh doanh. Do đó, Việt Nam cần thay đổi tác phong làm việc của mình

để thích ứng với cung cách làm ăn của TNCs. Mặt khác cần giữ gìn bản sắc của người Việt Nam, luôn có ý thức vươn lên học hỏi, tránh bị phụ thuộc, chi phối.

Thứ bảy, khi đã đầu tư và hoạt động trên địa bàn thủ đô. Các TNC nghiên cứu sâu sắc về thị trường, và lợi thế so sánh của mình nhằm tận dụng

được các ưu thế để chiếm lĩnh thị trường .

Trên đây là một số giải pháp cụ thể để thúc đẩy có hiệu quả hoạt động của TNCs trên địa bàn Thủ đô. Hy vọng rằng, tình trạng hoạt động của TNCs tại Hà Nội sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, mang lại lợi ích không chỉ cho TNCs trên địa bàn mà còn góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần thay đổi diện mạo kinh tế Hà Nội.

kết Luận

Toàn cầu hoá là xu thế không thể đảo ngược. Trong xu hướng đó không một quốc gia nào có thể phát triển mà lại không thực hiện mở rộng hoạt

động kinh tế đối ngoại, không tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì lại càng cần thiết phải mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút và thúc đẩy hoạt động của TNCs. Trong tiến trình này TNCs có một vai trò hết sức quan trọng bởi sự hoạt động của TNCs đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi quốc tế. Với tiềm lực kinh tế to lớn, hệ thống chi nhánh trải rộng khắp thế giới, thực hiện quốc tế hoá sản xuất và lưu thông một cách sâu rộng, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh dưới hình thức mới, phong phú đa dạng.

Đặc điểm đó đã tạo ra những cơ hội và những thách thức với tất cả các nước, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Những năm vừa qua, nguồn vốn FDI được xác định là một trong những nhân tố quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, trong đó TNCs chiếm giữ một vai trò quan trọng. Thời gian qua có thể thấy sự hoạt động của TNCs tại Thủ đô Hà Nội đã góp phần

đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực Thủ đô.

Sự đóng góp của TNCs đã tạo điều kiện để nền kinh tế Thủ đô thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Đến nay đã có nhiều TNCs hoạt động tại Hà Nội trên nhiều lĩnh vực, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế theo hướng tích cực, đổi mới kỹ thuật công nghệ, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực... Tuy nhiên hoạt động của một số công ty xuyên quốc gia còn gây ra các tác động tiêu cực, làm phá sản xí nghiệp nhỏ và vừa, chuyển giao những công nghệ cũ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sinh thái...

Hà Nội là trung tâm kinh tế của cả nước. Sự phát triển bền vững của kinh tế Thủ đô sẽ tạo đà cho nền kinh tế cả nước phát triển. Để phát huy được những thế mạnh, đồng thời hạn chế những tiêu cực do TNCs gây ra cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Cải thiện môi trường và chính sách đầu

tư, tăng cường hiệu lực và quản lý nhà nước, tạo lập đối tác đầu tư trong nước, phát triển nguồn nhân lực, cần phải có chính sách, biện pháp chọn lọc, điều chỉnh kịp thời, phù hợp với hoàn cảnh, khả năng hấp thụ của nền kinh tế.

Thực tế quá trình CNH - HĐH Thủ đô đòi hỏi phải thu hút được một lượng FDI từ TNCs lớn hơn và thúc đẩy hoạt động của TNCs phát huy mạnh mẽ khả năng vốn có của nó để tạo đà cho kinh tế Thủ đô phát triển. Từ những cơ hội và thách thức mà tác giả đã luận giải ở trên, luận văn đã đề ra một số giải pháp để thu hút và thúc đẩy hoạt động của TNCs tại Hà Nội thông qua các hình thức đầu tư cụ thể. Để làm được điều đó còn tuỳ thuộc vào khả năng thu hút vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó, trong đó việc cải thiện môi trường và chính sách đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh của đất nước trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành ưu thế thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả cho sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng.

Được sự giúp đỡ tận tình của TS. Nguyễn Bích, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp để công trình nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 (khoá IX), Hà Nội.

2. PGS.TS. Đỗ Đức Bình (2005), Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. TS. Lê Thanh Bình (2002), Kinh tế đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2000), Các văn bản hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (12/2007) Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Năm 2007 và những giải pháp chính năm 2008, Tài liệu báo cáo tại hội nghị ngành kế hoạch đầu tư, Hà Nội.

6. Bộ kế hoạch và Đầu tư (2002), Báo cáo khung định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006-2010, Hà Nội.

7. Bộ Lao động thương binh xã hội (2007), Số liệu thống kê lao động và việc làm ở Việt Nam, Công ty in lao động - Xã hội.

8. C.Mác và Ph. Ăng ghen. Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, t.25, phần I, tr 360 - 673 - 674.

9. Đậu Văn Dũng (2006), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị - Đại học quốc gia Hà Nội.

10. §ảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. §ảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. PGS.TSKH. Nguyễn Bích Đạt (2006), Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. ThS. Tống Quốc Đạt (2002), “Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”. Tạp chí Kinh tế và dự báo, (10).

14. Nguyễn Thuý Hoà (2003), Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Nguyễn Mạnh Hùng (2001), Các dự án đầu tư ở Việt Nam đến 2010, Nxb, Thống kê, Hà Nội.

16. TS.Nguyễn Thị Hường (2002), Quản lý dự án và doanh nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI. NXB. Thống kê, Hà Nội, tập 1.

17. TS.Nguyễn Thị Hường (2002), Quản lý dự án và doanh nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI. NXB. Thống kê, Hà Nội, tập 2.

18. Nguyễn Bích Hường (2003), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam dưới tác động của tiến trình AFTA, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (5).

19. ThS. Nguyên Văn Lan (2002), “Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và tác động của nó đối với các nước đang phát triển”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (3).

20. PGS.TS. Trần Quang Lâm - TS. An Như Hải (2006), Kinh tÕ cã vèn

đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Hoàng Thị Bích Loan (2002) Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế công nghiệp mới ở Châu ¸, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Lê Bộ Lĩnh (2002), Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. TS. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

24. Lê Văn Sang, Trần Quang Lâm (1996) Các công ty xuyên quốc gia trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Sđd, t. 27,tr 489.

26. Sở kế hoạch Đầu tư Hà Nội - Phòng đầu tư nước ngoài (2008), Báo cáo tổng kết thu hút tình hình đầu tư nước ngoài năm 2007, Hà Nội.

27. Nguyễn Thiết Sơn (1999), “Các công ty xuyên quốc gia và đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (6).

28. TS. Nguyễn Hồng Sơn (2005), Điều tiết sự di chuyển của dòng vốn tư nhân gián tiếp nước ngoài ở một số nước đang phát triển. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Phan Hữu Thắng (2/2004), “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”, Hội thảo của JBIC về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.

30. Nguyễn Khắc Thân (1992), Vai trò của các công ty xuyên quốc gia

đối với nền kinh tế các nước ASEAN, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

31. TS. Trương Đoàn Thể (2004), Hoàn thiện quản lý nhà nước các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

32. Tổng cục thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội.

33. Trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu Tư tháng 7 năm 2008.

34. Trang Web của Sở Kế hoạch và Đầu Tư Hà Nội tháng 7 năm 2008.

35. GS.TS. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. VI.

36. VI. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1980, t.27, tr, 401- 402 - 451.

37. Vietnam Economic Time, January 2007, tr. 23 – 32.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/10/2023