giả đề cập đến chiến lược là chiến lược thực hiện hay còn gọi là chiến lược hoạt động trong thực tế.
Chiến lược công ty nhằm giải quyết một vấn đề hết sức quan trọng đó là phải làm gì cho sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Điều này có liên quan đến lợi ích kinh tế của mọi doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Một số chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia
Để đạt tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp cần thiết phải lựa chọn và áp dụng những chiến lược hoạt động khác nhau trong mỗi thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. TNC với đặc trưng lớn về quy mô và rộng về phạm vi tác nghiệp, đồng thời phải đối mặt với những rủi ro khó lường trên thị trường quốc tế, nên chúng sẽ tập trung vào một số chiến lược hoạt động chủ yếu sau đây:
Một là, toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh
Toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh (global integration) chỉ việc tiến hành quản lý hoạt động rải rác ở các địa phương ở phạm vi quốc tế, trên cơ sở hoạt động duy trì kinh doanh. Chẳng hạn việc hình thành mạng lưới vận chuyển và lắp đặt linh kiện giữa các ngành chế tạo tại nhiều quốc gia trên thế giới, thì nhu cầu toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh là do áp lực giảm giá thành và tăng lợi nhuận đầu tư, áp lực giảm giá thành bắt buộc TNCs phải xây dựng nhà máy tại các khu vực hay quốc gia có giá nhân công rẻ (chủ yếu là các nước đang phát triển) như Việt Nam, Đài Loan hay Trung Quốc. Sau đó sản phẩm sẽ được chuyển từ những nơi này đến thị trường Bắc Mỹ và EU. Áp lực này cũng có thể dẫn đến việc xây dựng những nhà máy lớn, trình độ chuyên môn hóa cao nhằm tận dụng triệt để lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Các nhà máy của công ty canon tại Châu Âu hay các xưởng chế tạo của IBM, Toyota có mặt trên khắp thế giới là các minh chứng điển hình. Trong mọi
trường hợp, mục tiêu của toàn cầu hóa vẫn là tận dụng ưu thế giá thành sản xuất thấp, nguồn nhân công rẻ, nguyên liệu nhiều và đa dạng v.v.
Hai là, phối hợp chiến lược toàn cầu
Phối hợp chiến lược toàn cầu (Global coordination) là việc quản lý tập trung trong phân phối sắp xếp nguồn lực tại nhiều quốc gia trong quá trình thực hiện chiến lược. Điều này khác với việc duy trì toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh đa quốc gia. Điển hình là trình tự ưu tiên khi phối hợp nghiên cứu và phát triển giữa các phòng thực nghiệm, sự thống nhất trong định giá đối với các khách hàng trên phạm vi toàn cầu, sự chuyển giao từ công ty mẹ đến các công ty con hay giữa các công ty con với nhau. Điểm khác biệt với hoạt động toàn cầu hóa là sự phối hợp chiến lược có thể là có tính lựa chọn và là cá biệt. Phối hợp chiến lược luôn có vai trò cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự thống nhất giữa công ty mẹ và công ty con tại các nước về phân bổ nguồn lực trong chiến lược và cạnh tranh. Mục tiêu phối hợp chiến lược là xác định,kiến tạo và duy trì ưu thế cạnh tranh lâu dài. Ví dụ, để thống nhất sự ứng phó đối với cạnh tranh, công ty mẹ có thể giao các mục tiêu rất cụ thể cho các công ty con có chung loại hình hoạt động kinh doanh.
Cũng như hoạt động toàn cầu hóa, sự phối hợp mang tầm chiến lược thường là giữa công ty mẹ với một hoặc nhiều công ty con, công ty cháu. Những chính sách phối hợp này vượt quá phạm vi một công ty con.
Có thể bạn quan tâm!
- Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 1
- Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 2
- Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Công Ty Xuyên Quốc Gia
- Các Yếu Tố Môi Trường Kinh Doanh Trong Khu Vực Và Quốc Tế
- Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh Chủ Yếu Của Các Công Ty Xuyên Quốc Gia Nhật Bản Từ Năm 1990 Đến Nay
- Trị Giá Các Vụ Mua Lại Và Sáp Nhập (M&a) Xuyên Quốc Gia Của Tncs Trên Thế Giới 1990-2005
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Ba là, địa phương hóa hoạt động kinh doanh
Địa phương hóa hoạt động kinh doanh (Local Responsive-ness) nghĩa là căn cứ vào nhu cầu tiêu thụ và cạnh tranh có tính chất địa phương, mỗi công ty con sẽ tự hoạch định chính sách phân bổ nguồn lực. Trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, sự phối hợp tổng thể nhiều công ty con có khi không mang lại lợi thế cạnh tranh, mà ngược lại, có thể làm suy yếu lợi thế.
Chiến lược này thường được áp dụng triệt để đối với các lĩnh vực kinh doanh không có yêu cầu lớn về kinh tế quy mô và kỹ thuật tiên tiến. Do phải
căn cứ vào nhu cầu thị trường địa phương để tiến hành những điều chỉnh quan trọng hoặc cũng có thể do kênh phân phối giữa các quốc gia có nhiều khác biệt lớn, do vậy cần thực hiện chiến lược địa phương hóa.
Bốn là, chiến lược đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh
Đây là một trong những chiến lược căn bản nhất của họat động kinh doanh quốc tế, nó được hầu hết tất cả TNCs trên thế giới áp dụng nhằm phân tán rủi ro. Trong tiến trình đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh thì thường mỗi TNCs căn cứ vào ưu thế của mình để xây dựng một mặt hàng chủ lực làm trụ cột rồi sau đó mở rộng dần ra các lĩnh vực khác.
Trong một tiếp cận khác, sự đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là có thể đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh dựa trên những chiến lược sau: (1) Chiến lược đa dạng hóa với những sản phẩm không hoặc ít liên quan tới sản phẩm hiện tại đang kinh doanh. Đa dạng hóa theo chiến lược này bằng cách thôn tính hay đoạt lấy các sản phẩm kinh doanh trên thị trường mới mà không hay có rất ít liên quan đến sản phẩm, hay thị trường truyền thống của doanh nghiệp. Theo đuổi chiến lược này, doanh nghiệp phải mở rộng quản lý tập hợp các sản phẩm kinh doanh, thay đổi tổ chức, cơ cấu doanh nghiệp v.v. Thực chất của chiến lược này là làm tăng thêm giá trị kinh doanh bằng việc “đoạt lấy” cái mà doanh nghiệp cần; (2) Chiến lược đa dạng hóa dựa trên những liên quan với những sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp. Đa dạng chiến lược là chiến lược đa dạng hóa bằng cách “chuyển giao” kỹ năng hoặc “chia sẻ” hoạt động của doanh nghiệp. Theo hướng chiến lược này, doanh nghiệp đa dạng hóa các hoạt động bằng cách tiến hành mở rộng thêm các lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến những sản phẩm hay thị trường hiện tại. Khác với chiến lược trên là “đoạt lấy” giá trị mới thì chiến lược này là theo hướng doanh nghiệp tạo ra giá trị mới. Chiến lược này có thể an toàn hơn và doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh nhưng nói chung thì quá trình đa dạng hóa ở đây thường diễn ra trong một thời gian tương đối dài.
Mỗi TNC có thể thực hiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình thông qua nhiều biện pháp khác nhau như: Phát triển từ bên trong, qua liên doanh với các doanh nghiệp khác, thôn tín hay mua lại các doanh nghiệp khác hoặc cùng hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp khác trong một lĩnh vực nào đó. Mỗi lựa chọn như vậy đều có những thuận lợi và khó khăn khác nhau cần được xem xét và trong thực tế mỗi biện pháp này đều có thể coi là một chiến lược hoạt động của các TNC:
Thứ nhất, đa dạng hóa qua sự phát triển từ bên trong doanh nghiệp. Đa dạng hóa theo hướng này chính là xây dựng một hoạt động kinh doanh mới trên cơ sở các điều kiện kinh doanh hiện có của doanh nghiệp. Theo hướng này, doanh gnhiệp có thể thực hiện các họat động như: (1) Doanh nghiệp thực hiện đầu tư tài chính và trực tiếp thực hành các hoạt động kinh doanh mới. Trong hình thức này, doanh nghiệp phải chấp nhận cả những rủi ro về tài chính. (2) Tài trợ, giúp đỡ hay hậu thuẫn cho một ý tưởng kinh doanh mới, phát triển và chuyển giao ý tưởng kinh doanh mới. (3) Khuyến khích và tạo điều kiện để các cá nhân hay bộ phận nào đó trong doanh nghiệp phát triển ý tưởng kinh doanh của họ.
Đa dạng hóa theo hướng này, doanh nghiệp có thể chủ động hơn và kiểm soát được quá trình thực hiện cũng như quản lý được các hoạt động kinh doanh đã được đa dạng hóa. Tuy nhiên quá trình này thường diễn ra chậm, mất nhiều thời gian, khá tốn kém và đòi hỏi năng lực nghiên cứu và phát triển phải đạt ở trình độ cao.
Thứ hai, sáp nhập hay kết hợp với doanh nghiệp khác. Biện pháp này thực chất là mua lại hay sáp nhập vào các công ty khác, biến hoạt động trước vốn là riêng của doanh nghiệp khác nay thành một hoạt động bộ phận của doanh nghiệp mới, lớn hơn. Biện pháp này có một số ưu điểm như sau: (1) tốc độ đa dạng hóa rất nhanh. Chỉ cần sau khi các hợp đồng mua bán hay sáp nhập được ký, doanh nghiệp đã có thể có thêm những hoạt động mới, sản
phẩm mới, thị trường và khách hàng mới…trong kinh doanh; (2) Việc mua lại một công ty kinh doanh khác làm cho doanh nghiệp không chỉ tiếp tục khai thác thị trường từ đó mà doanh nghiệp còn theo dõi toàn bộ quá trình hoạt động của các cơ sở mới trên cơ sở các thông tin và các báo cáo từ trước; (3) Việc mua lại một doanh nghiệp làm giảm đi số các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường và do vậy cũng làm giảm bớt mật độ cạnh tranh v.v.
Thứ ba, hợp tác – liên minh chiến lược.
Biện pháp này được thực hiện chủ yếu dưới dạng liên doanh, liên minh hay cùng hợp tác với nhau giữa một doanh nghiệp này với một hay các doanh nghiệp khác. Trong hình thức này, hai công ty cùng liên doanh với nhau mở chung một “đơn vị kinh doanh” mới có tổ chức và quản lý độc lập hoặc tương đối độc lập. Cơ sở liên doanh này vừa làm đa dạng hóa các hoạt động của doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện khai thác thế mạnh của mỗi bên và khắc phục các hạn chế mà mỗi cơ sở liên doanh này vừa làm đa dạng hóa các hoạt động của doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện khai thác thế mạnh của mỗi bên và khắc phục các hạn chế mà mỗi doanh nghiệp hoạt động độc lập gặp phải. Những ưu điểm trong hình thức đa dạng hóa này có thể thấy như: (1) Chia sẻ rủi ro trong hoạt động kinh doanh vì các bên liên doanh, liên kết có những điểm mạnh và có thể hỗ trợ tốt cho nhau; (2) Khai thác, tận dụng được những lợi thế kinh tế từ quy mô trong hoạt động kinh doanh; (3) Thâm nhập thị trường mới nhanh chóng trên cơ sở những quan hệ thị trường có sẵn của các bên đối tác trong kinh doanh, liên minh; (4) Tiếp thu và chuyển giao cho nhau được những kỹ thuật, công nghệ mới và các lợi thế khác giữa các bên tham gia trong liên doanh, liên minh.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHIẾN LƯỢC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
1.3.1. Các yếu tố môi trường kinh doanh trong nước
Khi quyết định đưa ra các chiến lược hoạt động kinh doanh như mở rộng hoạt động ra nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia thường phải xem xét đến các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh trong nước có ảnh hưởng đến hoạt động của chúng, như: các nhóm yếu tố về tình hình chính trị, chính sách
- pháp luật, vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển và sự ổn định kinh tế, các đặc điểm văn hóa xã hội ở trong nước…
1.3.1.1 .Điều kiện tự nhiên – chính trị – xã hội
Điều kiện tự nhiên, chính trị và xã hội là những yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư, nhà quản trị các doanh nghiệp quan tâm phân tích để dự báo mức độ an toàn trong các hoạt động kinh doanh đầu tư. Các yếu tố như thể chế chính trị, sự ổn định hay biến động về chính trị – xã hội là những tín hiệu ban đầu giúp các nhà quản trị nhận diện đâu là cơ hội hoặc đâu là nguy cơ của doanh nghiệp để đề ra các quyết định đầu tư, sản xuất kinh doanh trên các khu vực thị trường thuộc phạm vi quốc gia hay quốc tế. Có thể nói sự ổn định chính trị là điều kiện đảm bảo về sở hữu vốn, an toàn vốn và đường lối phát triển nhất quán. Không chỉ có vậy, sự ổn định này còn đảm bảo sự ổn định kinh tế – xã hội, nhờ đó giảm được khả năng xảy ra rủi ro cho nhà đầu tư.
Điều kiện tự nhiên có thể kể đến như là điều kiện khí hậu, môi trường, thiên nhiên, đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên… Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đầu tư ra nước ngoài, đến chiến lược hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Yếu tố này quyết định lĩnh vực đầu tư như nông nghiệp hay công nghiệp, đầu tư công nghệ độ bền cao hay vừa phải. Điều kiện tự nhiên không thuận lợi càng là cái đà thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia thực hiện chiến lược đầu tư ra nước ngoài, tìm kiếm những gì đang thiếu sót và tìm kiếm những khoản lợi nhuận mà các công ty này khó lòng mà kiếm được với điều kiện tự nhiên của nước mình.
1.3.1.2. Môi trường kinh tế (sự tăng trưởng kinh tế, đồng tiền và chi phí sản xuất)
Các ảnh hưởng của nền kinh tế đến một công ty có thể làm thay đổi khả năng tạo giá trị và thu nhập của nó. Bốn nhân tố quan trọng trong môi trường kinh tế vĩ mô đó là tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ suất hối đoái, và tỷ lệ lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế dẫn đến một sự bùng nổ về chi tiêu của khách hàng, vì thế có thể đem lại khuynh hướng thoải mái hơn về sức ép cạnh tranh trong một ngành. Điều này có thể cống hiến cho các công ty cơ hội để bành trướng hoạt động và thu được lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, suy giảm kinh tế sẽ dẫn đến sự giảm chi tiêu của người tiêu dùng, và do đó làm tăng sức ép cạnh tranh. Nền kinh tế suy giảm thường gây ra các cuộc chiến tranh giá trong các ngành bão hòa.
Mức lãi suất có thể tác động đến nhu cầu về sản phẩm của công ty. Lãi suất là một nhân tố quan trọng khi khách hàng phải vay mượn để tài trợ cho hoạt động mua sắm của họ về các hàng hóa này.
Tỷ giá hối đoái xác định giá trị đồng tiền các quốc gia với nhau. Sự dịch chuyển của tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp lên tính cạnh tranh của các công ty trong thị trường toàn cầu. Ví dụ, khi giá trị của nội tệ thấp so với giá trị của các đồng tiền khác, các sản phẩm làm trong nước sẽ rẻ tương đối so với các sản phẩm làm ở nước ngoài. Đồng nội tệ giá trị thấp hay suy giảm sẽ giảm mối đe dọa từ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, trong khi lại tạo ra cơ hội cho việc tăng doanh số bán ra bên ngoài. Ví dụ việc giảm giá trị đồng đô la so với đồng Yên Nhật bản vào thời kỳ 1985-1995, khi mà tỷ suất USD/Yên giảm từ 1USD = 240Y xuống còn 1USD=85Y, đã làm tăng giá mạnh mẽ ô tô của Nhật, giúp cho các nhà chế tạo ô tô Mỹ có một sự bảo vệ trước mối đe dọa của ô tô Nhật bản.
Lạm phát có thể làm giảm tính ổn định của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm hơn, lãi suất cao hơn, các dịch chuyển hối đoái không ổn định. Nếu lạm phát tăng, việc lập kế hoạch đầu tư trở nên mạo
hiểm. Đặc tính then chốt của lạm phát là nó gây ra khó khăn cho các dự kiến về tương lai. Trong một môi trường lạm phát, khó có thể dự kiến một cách chính xác giá trị thực của thu nhập nhận được từ các dự án 5 năm. Sự không chắc chắn như vậy làm cho công ty không dám đầu tư. Tình trạng đầu tư cầm cự của các công ty trong trường hợp lạm phát tăng sẽ làm giảm các hoạt động kinh tế, cuối cùng đẩy nền kinh tế đến chỗ đình trệ. Như vậy, lạm phát cao là một đe dọa đối với công ty.
1.3.1.3. Chính sách của Chính phủ
Chính phủ có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ và các chương trình chi tiêu của mình. Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp, chính phủ đóng vai trò là người kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, quy định, ngăn cấm, hạn chế và vừa đóng vai trò khách hàng quan trọng đối với doanh nghiệp (trong chương trình chi tiêu của chính phủ) và sau cùng chính phủ đóng vai trò là nhà cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp như cung cấp thông tin vĩ mô, các dịch vụ công cộng khác. Để tận dụng được cơ hội và giảm thiểu được nguy cơ, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đi theo hướng tập đoàn xuyên quốc gia luôn phải đối mặt với nhiều thách thức hơn các doanh nghiệp bình thường khác trong nước, phải biết nắm bắt cho được những quan điểm, những quy định, những ưu tiên những chương trình chi tiêu của Chính phủ, và cũng phải thiết lập một quan hệ tốt đẹp nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc chính sách của Chính phủ ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động kinh doanh có thể kể đến như: chính sách tài chính tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối. Các chính sách này có liên quan đến các mặt : hiệu quả sử dụng vốn của các nhà đầu tư (hiệu qủa trong nước càng cao thì họ càng ít đầu tư ra nước ngoài), khả năng xuất khẩu (trong nước càng khó xuất khẩu thì công ty càng muốn đầu tư thêm ra nước ngoài) và khả