Kiểm tra, kiểm soát của cộng đồng là biện pháp hữu hiệu, đặc biệt là kiểm tra các dự án sử dụng vốn huy động đóng góp của nhân dân. Tất nhiên, việc kiểm tra, kiểm soát không được làm gián đoạn hoạt động của việc thực hiện dự án.
Yêu cầu của kiểm tra, kiểm soát là trung thực, đầy đủ, chính xác, khách quan và kịp thời. Vì vậy, Nhà nước tạo lập các điều kiện để việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo yêu cầu, từ tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, quy định về địa vị pháp lý, quy định chức năng, nhiệm vụ, chặt chẽ về quy trình, đảm bảo tính độc lập trong hoạt động. Chẳng hạn, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) từ 2005 trở về trược là quan thuộc Chính phủ. Theo luật KTNN năm 2005, kể từ ngày 01/10/2006, KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; là cơ quan thực hiện chức năng, kiểm tra, kiểm soát về tài chính của Nhà nước độc lập với cả ba hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính độc lập của KTNN được pháp luật quy định nhằm đảm bảo các kết luận và kiến nghị của KTNN mang tính khách quan và có giá trị pháp lý cao bởi đó là sự kiểm tra từ ‘bên ngoài”, không phụ thuộc với đơn vị được kiểm toán về tổ chức nhân sự và kinh phí hoạt động.
Nhìn chung, công tác thanh tra, kiểm tra giám sát của nhà nước đối với đầu tư XDCB trong ngành GTVT đòi hỏi: 1)Phải thường xuyên và kịp thời để phát hiện và xử lý các vi phạm, sai phạm trong triển khai, thực hiện dự án.
2) Công tác kiểm định chất lượng, kiểm tra thanh tra các dự án cần phải thực hiện chính xác và nghiêm.
Tóm lại, để công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB bẳng vốn NSNN trong ngành GTVT có thể thực hiện được các yêu cầu như phân tích ở bảng 2.1. cần thiết phải đảm bảo các điều kiện như bảng 2.2. sau
Bảng 2.2. Những điều kiện thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN trong ngành GTVT
Yêu cầu nội dung | |
1. Môi trường luật pháp và cơ chế chính sách | 1. Môi trường pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, thường xuyên được rà soát bổ sung hoàn thiện. 2. Cơ chế, chính sách phải phù hợp; các chế tài xử lý nghiêm đối với các chủ thể tham gia trong mọi giai đoạn 3. Môi trường luật pháp và cơ chế chính sách công khai và minh bạch. Công tác quyết toán phải thống nhất trên toàn quốc gia. |
2. Tổ chức quản lý đầu tư. | 1. Tổ chức thực hiện công tác tư vấn cần phải độc lập chủ động theo đề xuất chuyên môn. 2. Chủ đầu tư cần phải bố trí đủ vốn để triển khai dự án, tránh kéo dài dàn trải gây thất thoát. 3.Thực hiện đồng bộ và thống nhất cách phê duyệt đơn giá quyết toán công trình trên toàn quốc. 4. Tổ chức quản lý điều hành ngân sách chặt chẽ. |
3. Năng lực cán bộ quản lý | 1. Đội ngũ cán làm quy hoạch, kế hoạch cần phải đáp ứng yêu cầu để theo kịp với những thay đổi. 2. Năng lực của nhà thầu và đơn vị tư vấn (lập, quản lý, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình) có kinh nghiệm và chuyên môn giỏi. 3. Cán bộ thẩm định quyết toán phải có chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. |
Kiểm tra, kiểm soát | 1. Phải thường xuyên và kịp thời để phát hiện và xử lý các vi phạm, sai phạm trong triển khai, thực hiện dự án. 2. Công tác kiểm định chất lượng, kiểm tra thanh tra các dự án cần phải thực hiện chính xác và nghiêm. |
Nguồn: Xây dựng của tác giả |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách trong ngành giao thông vận tải Việt Nam - 8
- Yêu Cầu Đối Với Các Khâu Quản Lý Nhà Nước Đối Với Đầu Tư Xdcb Bằng Nguồn Vốn Nsnn Trong Ngành Gtvt
- Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách trong ngành giao thông vận tải Việt Nam - 10
- Kinh Nghiệm Quản Lý Đầu Tư Từ Ngân Sách Nhà Nước Trong Lĩnh Vực Giao Thông Vận Tải Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Những Bài Học Kinh Nghiệm Chung Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Đầu Tư Xdcb Từ Ngân Sách Để Phát Triển Kết Cấu Hạ Tầng Của Một Số Nước, Có Khả
- Tình Hình Vốn Đầu Tư Phát Triển Cơ Sở Hạ Tầng Giao Thông Trong Ngành Giao Thông Vận Tải (Do Bộ Gtvt Trực Tiếp Quản Lí).
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
2.2.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT
Quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT có vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo môi trường để thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân đòi hỏi cần được đổi mới để quản lý có hiệu quả hơn. Điều đó là do các yêu cầu sau đây:
*Thứ nhất: Do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT. Giao thông vận tải có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, là lĩnh vực kết cấu hạ tầng rất quan trọng, tạo ra cơ sở vật chất cho kỹ thuật cho xã hội, nhân tố quyết định việc hình thành và đổi mới tài sản cố định của các ngành kinh tế quốc dân. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì nhu cầu vận tải ngày càng tăng lên. Mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình phát triển giữa vận tải và các ngành kinh tế có tính chất tương hỗ nhau. Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế trong đó có hoạt XDGT cũng chuyển đổi. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với XDGT là một đòi hỏi khách quan và cấp bách.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế chuyển theo cơ chế thị trường, cách quản lý tập trung quan liêu, bao cấp trước đây không còn phù hợp với hệ thống vận hành của hệ thống đối tượng quản lý nhà nước
- nền kinh tế nói chung trong đó có XDGT.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động trên cơ sở hệ thống các qui luật của nó như: Qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, độc quyền…. ngoài những ưu việt của cơ chế đó đối với hoạt động của nền kinh tế, bản thân cơ chế đó còn bộc lộ nhiều khuyến tật, tác động tiêu cực đến mục
tiêu quản lý nhà nước. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nước để phát huy các nhân tố tác động tích cực và hạn chế tác động của các nhân tố tiêu cực của cơ chế thị trường.
Ngày nay, vận tải được coi là một trong những ngành kinh tế dịch vụ chủ yếu có liên quan trực tiếp tới mọi hoạt động sản xuất và đời sống của toàn xã hội. Nhờ có dịch vụ này mới tạo ra đựơc sự gặp gỡ của mọi hoạt động kinh tế và xã hội. Dịch vụ vận tải đã nâng đỡ cho nền kinh tế phát triển. Thách thức lớn nhất để phát triển kinh tế là lĩnh vực hạ tầng. Giao thông là bộ phận của kết cấu hạ tầng, có thể cản trở, có thể nâng đỡ cho sự phát triển, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xóa nghèo, cải thiện môi trường.
Lĩnh vực xây dựng giao thông ở nước ta hiện nay, đang thu hút nhiều tài nguyên, đặc biệt là sử dụng nguồn vốn của ngân sách, của xã hội vì vậy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nhằm để sử dụng có hiệu quả một khối lượng lớn vốn đầu tư đang và sẽ bỏ vào lĩnh vực này.
Trong điều liện nền kinh tế mở, cạnh trach xây dựng trở nên gay gắt, quyết liệt, nếu không tổ chức lại lực lượng xây dựng giao thông trong nước, có công nghệ hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế, sẽ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường xây dựng Việt Nam. Đổi mới đối tượng quản lý là yêu cầu bức bách. Sự phát triển và đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá XDGT không thể thiếu hoàn thiện quản lý xây dựng. Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải hoàn thiện quản lý nhà nước đối với ĐTXDCB từ ngân sách trong ngành GTVT.
*Thứ hai: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT do yêu cầu nhằm tăng hiệu quả đầu tư: đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và tuổi thọ các công trình. Hiệu quả đầu tư XDCB từ NSNN trong ngành GTVT thể hiện cuối cùng ở kết quả, ở chất lượng công trình sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng đúng thời gian gắn liền với năng lực quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
Đầu tư phát triển luôn là nhân tố quyết định trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Giao thông vận tải là đối tượng được ưu tiên trong đầu tư phát triển. Đầu tư để phát triển hệ thống GTVT đa dạng, hiện đại, tiện lợi, an toàn và thông thương với quốc tế là nhu cầu tất yếu trong hội nhập khu vực và thế giới. Trong GTVT, quan hệ giữa đầu tư phát triển KCHT và đầu tư kinh doanh vận tải là khăng khít. Muốn có vận tải phải có đầu tư. Đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông cần khối lượng vốn lớn, chủ yếu là nguồn vốn ngân sách nhà nước. Muốn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn vào kinh doanh vận tải, Nhà nước phải tăng đầu tư phát triển KCHTGT nhằm khuyến khích đầu tư kinh doanh. Đầu tư vào KCHTGT là khoản đầu tư khó thu hồi vốn nhưng lợi ích mà nền kinh tế nhận được là nó tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ gia đình trong lĩnh vực vận tải. KCHTGT nâng đỡ cho nền kinh tế, thực chất là tạo điều kiện để phát triển hoạt động vận tải. Lợi ích mà nền kinh tế nhận được chính là việc nhận được các dịch vụ vận tải tốt, tiện lợi, có chi phí rẻ và an toàn. Càng giảm chi phí vận tải càng tăng lợi ích. Điều đó dẫn đến sự tăng tiến hiệu quả sản xuất xã hội.
Đầu tư XDGT là một dạng đầu tư XDCB có tính chuyên ngành. Hoạt động XDGT góp phần tăng thêm và cải tiến tài sản cố định cho nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc đẩy nhanh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào lĩnh vực vận tải. Do đó yêu cầu nhằm tăng hiệu quả đầu tư: đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và tuổi thọ các công trình là rất cần thiết trong đầu tư XDGT.
Kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường (KTTT) phát triển cho thấy: Bản thân nền KTTT, tự nó cũng đòi hỏi cần có một kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo hướng hiện đại tương ứng. Muốn vậy cần có một lượng lớn vốn đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành GTVT và theo đó cũng đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm đến việc quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong thời gian tới ở nước ta.
Tương tự, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia của nước ta trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài không thể không có nhiều vốn đầu tư XDCB, không thể không thông qua đổi mới để tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN nhằm tăng hiệu quả đầu tư : đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và tuổi thọ các công XDGT.
*Thứ ba: Do yêu cầu phải nhanh chóng khắc phục có hiệu quả tình trạng lãng phí, thất thoát và tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT hiện nay. Thực trạng lĩnh vực đầu tư XDCB ở nước ta, lãng phí và thất thoát vốn là 2 căn bệnh mang tính phổ biến hiện nay. Vì vậy, hoàn thiện quản lý đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được.
Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư - phát triển của Nhà nước ngày càng tăng, đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm mới, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong ngành GTVT còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc: một số quyết định chủ trương đầu tư thiếu chính xác; tình trạng đầu tư dàn trải diễn ra phổ biến thể hiện trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư, từ chủ trương đầu tư quy hoạch, lập, thẩm định dự án, khảo sát thiết kế đến thực hiện đầu tư đấu thầu, nghiệm thu, điều chỉnh tăng dự toán, thanh quyết toán và đưa công trình vào khai thác sử dụng kém chất lượng; nợ tồn đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở mức cao và có xu hướng ngày càng tăng. Những thất thoát, lãng phí trong xây dựng công trình làm giảm sút chất lượng của công trình, ảnh hưởng đến tuổi thọ của công trình so với thiết kế. Đây cũng là một thất thoát vốn Nhà nước phải tính đến, bởi lẽ công trình chỉ phục vụ được trong một số năm ít hơn số năm trong dự án được duyệt.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước được lựa chọn theo con đường phát triển rút ngắn, đã và đang đòi hỏi phải ứng dụng ngày càng nhiều thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại và phù hợp với nó phải là một kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội hiện đại. Cả 2 nội dung này đều cần nhiều đến vốn đầu tư XDCB, nhất là vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn của NSNN.
Đặc điểm của loại vốn này có độ rủi ro lớn, chi không hoàn lại nên dễ dẫn đến lãng phí và thất thoát lớn, đó là một mặt. Mặt khác, tạo vốn đã khó, song việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là điều kiện có ý nghĩa quyết định đến nhịp độ và sự thành công của CNH, HĐH. Do đó, đòi hỏi phải thường xuyên hoàn thiện quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở nước ta và Hà Nội hiện nay.
Trong đầu tư XDCB từ NSNN trong ngành GTVT, mọi việc làm tăng chi phí đầu tư so với mức cần thiết dẫn đến làm giảm hiệu quả vốn đầu tư được coi là sự lãng phí, thất thoát vốn và đều làm cho nhịp độ và chất lượng của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội suy giảm. Đó là một mặt. Mặt khác, khi mức tăng trưởng không đổi, nếu việc quản lý và sử dụng kết quả của tăng trưởng không tốt sẽ kìm hãm phát triển sản xuất, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; việc làm, thu nhập giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và đời sống nhân dân chậm được cải thiện, công bằng xã hội dễ bị doãn ra, xã hội kém ổn định, làm suy giảm tính ưu việt của thể chế XHCN mà nước ta đang hướng tới.
Do đó, yêu cầu phải nhanh chóng khắc phục có hiệu quả tình trạng lãng phí, thất thoát và tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư XDCB từ ngân sách trong ngành GTVT hiện nay là rất cần thiết và cấp bách. Có thể nhận dạng hai căn bệnh lãng phí và thất thoát này qua sơ đồ 2.1. sau :
TỔN THẤT NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC CHO XDCB
E. Lãng phí vốn Nhà nước trong xây dựng
1. Quản lý vĩ mô vốn và ngân sách Nhà nước.
C. Kém hiệu quả
2. Chất lượng quy hoạch
3. Cơ chế xin-cho + quy hoạch kém, quy hoạch sai mục tiêu
4. Cập rập, hoàn thành vào giờ chót.
5. Xuống cấp do thiếu dự trù vốn để bảo trì.
1. Khi đưa công trình vào sử dụng, điều kiện kinh tế - xã hội khác với dự án được duyệt.
2. Tính năng kỹ thuật các thiết bị lỗi thời.
1. Giá đất và GPMB tăng
B. Kéo dài
2. Thất thoát vật tư
3. Giá thiết bị so với tính năng kỹ thuật trở nên lạc hậu
Chất lượng và tuổi thọ công trình giảm
1. Quy trình, thủ tục nặng nề nhưng nhiều khe hở.
2. Không đủ vốn thực hiện
3. Giải ngân chậm.
4. Tổng dự toán công trình tăng
A. Dàn trải
1. Quy hoạch, kế hoạch không tính đến hiệu quả, tư duy bao cấp nặng.
2. Cơ chế xin-cho công trình ngoài quy hoạch, kế hoạch.
3. Bất cập giữa khả năng ngân sách Nhà nước và số lượng công trình.
4. Giao cho các địa phương chỉ tiêu tốc độ phát triển dẫn đến phát triển theo chiều rộng
D. Thất thoát vốn xây dựng công trình
1. Quy trình quy hoạch-kế hoạch-dự án khép kín.
2. Chất lượng khảo sát, thiết kế
3. Tư vấn, thiết kế (khi có tiêu cực)
4. Thẩm định, trình phê duyệt
5. Cơ chế đấu thầu bị lợi dụng
6. Thi công (mua vật tư/giá/chủng loại/tiêu cực)
7. Giám sát thi công hình thức/thông đồng
8. Nghiệm thu hình thức/tiêu cực
9. Giải ngân chậm, có tiêu cực
10. Thanh quyết toán chậm, tiêu cực
11. Năng lực Chủ đầu tư và Ban quản lý dự án
12. Ngân sách Nhà nước phải trả lãi phần giải ngân chậm vốn ODA, trái phiếu Chính phủ.
Sơ đồ 2.1: Tổn thất nguồn vốn Nhà nước trong ĐTXDCB [ 77 ]