trên thế giới bao gồm Hy Lạp, Hungary, Serbia, Mexico, Morocco, Nigeria, Kenya, Zimbabwe, Pakistan và Philippines (Kukutschka 2016).
2.3. Những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều có những quan tâm trong công tác PCTN và đã ban hành các quy định cụ thể để thực hiện việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi nhà nước, mỗi quốc gia đều có những biện pháp cụ thể khác nhau trong PCTN. Từ kết quả nghiên cứu pháp luật thời phong kiến và pháp luật của Singapore, Trung Quốc nói trên chúng ta rút ra những giá trị tham khảo cho việc HTPL PCTN ở Việt Nam hiện nay:
- Pháp luật xác định rõ các hành vi tham nhũng xảy ra trên thực tế. Từ đó quy định các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, nhất là các hành vi nhận hối lộ, lợi dụng chức quyền để vụ lợi, chiếm đoạt, chiếm dụng tài sản, đất đai, ngân sách; bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đúng quy định để vụ lợi. Bên cạnh đó, pháp luật quy định những nguyên tắc trong xử lý tham nhũng, có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng. Những người phạm tội tham nhũng bên cạnh bị xử lý hình sự hoặc kỷ luật hành chính còn bị tịch thu sung công khoản vụ lợi, bồi thường bị thiệt hại.
- Coi trọng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, nhất là việc công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước và tài sản, thu nhập của công chức; có biện pháp kiểm soát tài sản, thu nhập của công chức, nhất là những người giàu lên bất thường và xử lý nghiêm đối với các trường hợp không thực hiện công khai, minh bạch hoặc không chứng minh được tài sản hợp pháp.
- Thành lập cơ quan chống tham nhũng chuyên trách có địa vị pháp lý tương đối độc lập và được giao những quyền hạn đặc thù, đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ phát hiện, xử lý tham nhũng một cách có hiệu quả.
- Quy định và thực hiện tốt chế độ đạo đức công vụ của công chức. Công chức thường xuyên phải rèn luyện thái độ làm việc, nhân phẩm, giá trị đạo đức, tính liêm khiết. Các cơ quan chức năng thường xuyên thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện chức trách công vụ của công chức.
- Trả lương xứng đáng cho công chức nhà nước, nhất là những người trực tiếp thực hiện công tác PCTN.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội trong PCTN.
- Phát huy vai trò của tổ chức, cá nhân trong PCTN; khuyến khích công dân tố cáo tham nhũng; có chính sách bảo vệ cán bộ, nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Và Kinh Nghiệm Về Phòng, Chống Tham Nhũng Trong Lịch Sử Phong Kiến Việt Nam
- Xử Lý Hành Vi Tham Nhũng Trong Pháp Luật Phong Kiến Việt Nam
- Tổ Chức Cơ Quan Chống Tham Nhũng Hoạt Động Độc Lập, Trong Sạch, Hiệu Quả
- Nội Dung Của Pháp Luật Về Trách Nhiệm Của Người Đứng Đầu Cơ Quan, Tổ Chức, Đơn Vị
- Chỉ Số Cảm Nhận Tham Nhũng (Cpi) Được Cải Thiện
- Quan Điểm Hoàn Thiện Pháp Luật Về Phòng, Chống Tham Nhũng
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Tham nhũng là căn bệnh nan y gắn liền với quá trình ra đời và phát triển của mỗi nhà nước. Lịch sử nhân loại cho thấy không phải đợi đến thời kỳ hiện đại, tham nhũng xuất hiện ngay trong các nhà nước chủ nô và phong kiến mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều có những quan tâm trong công tác PCTN và đã ban hành các quy định cụ thể để thực hiện việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi nhà nước, mỗi quốc gia đều có những biện pháp cụ thể khác nhau trong PCTN.
Nghiên cứu pháp luật phòng, chống tham nhũng của ông cha ta thời kỳ phong kiến cũng như pháp luật phòng, chống tham nhũng của các quốc gia trên thế giới là một việc làm cần thiết. Những kinh nghiệm mà ông cha ta để lại trong lịch sử lập pháp cũng như của các quốc gia trên thế giới sẽ đem lại cho chúng ta những giá trị tham khảo bổ ích trong quá trình hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Phạm vi và nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
3.1.1. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
Sau 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi năm 2007 và 2012), công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 đã bộc lộ những bất cập, dẫn đến tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra phức tạp, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIV đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng 2018. Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật ra khu vực ngoài nhà nước. Cụ thể, Luật PCTN 2018 mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp PCTN đối với các doanh nghiệp là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động sự đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện (gọi chung là doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước). Các biện pháp được mở rộng áp dụng với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức xã hội đã nêu bao gồm công khai, minh bạch tổ chức và hoạt động, phòng ngừa xung đột lợi ích và trách nhiệm của người đứng đầu.
Quy định này thể hiện tinh thần từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối với khu vực ngoài nhà nước của Đảng ta; đồng bộ Bộ Luật Hình sự đã mở rộng quy định xử lý đối với một số tội phạm về tham nhũng trong
mọi tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước; phù hợp với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên.
3.1.2. Nội dung của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
3.1.2.1. Những nội dung chung
- Về các hành vi tham nhũng: Xuất phát từ thực tế có sự khác biệt về hành vi và chủ thể tham nhũng trong các khu vực, Luật PCTN 2018 đã có những quy định riêng về các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Luật giữ các quy định trước đây (của Luật 2005) về hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước (12 hành vi), song bổ sung quy định về một số hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước, trong đó bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi. Mức độ mở rộng như vậy chưa nhiều, thể hiện sự thận trọng của các nhà lập pháp với một vấn đề còn mới ở Việt Nam, và trên tinh thần phù hợp với các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự hiện hành.
- Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong phòng, chống tham nhũng: Luật giữ các quy định cũ của Luật 2005 về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, song bổ sung một số quy định đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước để phù hợp với việc mở rộng phạm vi áp dụng. Cụ thể, Khoản 2 Điều 4 Luật PCTN 2018 quy định doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, phản ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy chế hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức; kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức, viên chức và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng.
- Về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN: Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục liêm chính việc phòng ngừa tham nhũng, Luật PCTN 2018 đã bổ sung quy định: “Cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng có trách nhiệm đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối với học sinh trung học phổ thông, sinh viên và cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật” (Khoản 2 Điều 6).
3.1.2.2. Nội dung của pháp luật về phòng ngừa tham nhũng
Vấn đề này được quy định tập trung ở Chương II Luật PCTN 2018, trong đó bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Về công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị (Mục 1): Để khắc phục tình trạng chồng chéo trong hệ thống pháp luật về vấn đề này, khác với Luật 2005, Luật PCTN 2018 không quy định công khai, minh bạch trong các lĩnh vực mà chỉ có quy định mang tính nguyên tắc về nội dung, hình thức, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với một số lĩnh vực quan trọng.
- Về xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chu n, chế độ (Mục 2): Tương tự như Luật 2005, Luật PCTN 2018 chỉ quy định mang tính nguyên tắc trong việc ban hành và thực hiện các quy định về định mức, tiêu chuẩn, chế độ, để không dẫn đến sự chồng chéo trong các văn bản pháp luật có liên quan.
- Về thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn (Mục 3): Luật PCTN 2018 kế thừa quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và việc tặng quà và nhận quà tặng của Luật 2005 (có với một số chỉnh lý), đồng thời bổ sung quy định về kiểm soát xung đột lợi ích tại Điều 23.
Đối với quy định tặng quà và nhận quà tặng: Luật PCTN 2018 quy định cụ thể hơn về việc tặng quà, theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được sử dụng tài chính công, tài sản công làm quà tặng, trừ trường hợp tặng quà vì mục đích từ thiện, đối ngoại và trong một số trường hợp cần thiết khác. Việc nhận quà tặng có liên quan đến công việc
đang giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của người có chức vụ, quyền hạn dưới mọi hình thức, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, bị cấm tuyệt đối.
Đối với quy định về kiểm soát xung đột lợi ích: Khoản 9 Điều 3 Luật PCTN 2018 quy định: Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đắn đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Đây là một quy định mới so với Luật 2005 nhưng thực tế đã được đề cập trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Bên cạnh Điều 3, Điều 23 Luật PCTN 2018 cũng tiếp tục đề cập đến kiểm soát xung đột lợi ích, bao gồm các yêu cầu báo cáo, thông tin và biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích.
- Về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức (Mục 4): Luật PCTN 2018 tiếp tục quy định nguyên tắc chuyển đổi vị trí công tác, vị trí công tác và thời hạn phải định kỳ chuyển đổi, kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác. Đối với thời hạn định kỳ chuyển đối, Luật PCTN 2018 giữ quy định của pháp luật hiện hành là 02 năm đến 05 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực và không quy định thời hạn chuyển đối đối với các trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật PCTN 2018 quy định cụ thể về việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ có một vị trí phải định kỳ chuyển đổi công tác thì sẽ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó đề nghị với cơ quan có thẩm quyền chuyển đổi.
- Về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt (Mục 5): Luật PCTN 2018 có quy định chi tiết hơn các nội dung về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý tại Điều 27 và Điều 28 và thanh toán không dùng tiền mặt tại Điều 29.
3.1.2.3. Nội dung của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn
Đây là những vấn đề mà Luật PCTN 2018 có nhiều nội dung mới và được sửa đổi, bổ sung so với Luật 2005, trong đó đặc biệt là các nội dung sau đây:
- Quy định về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập: Điều 30 Luật PCTN 2018 đã quy định cụ thể về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người thuộc diện kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình.
- Quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Luật PCTN 2018 kế thừa quy định trong Luật 2005 về nghĩa vụ kê khai nhưng có điều chỉnh để rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên.
- Quy định về người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Điều 34 Luật PCTN 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai lần đầu đến tất cả cán bộ, công chức và một số nhóm viên chức giữ chức vụ, chức danh quản lý nhằm quản lý chặt chẽ hơn dữ liệu tài sản, thu nhập, qua đó theo dõi, xác minh phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, Luật đồng thời thu hẹp diện đối tượng phải kê khai thường xuyên, kê khai hằng năm nhằm bảo đảm tính hiệu quả, khả thi của việc kiểm soát, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập.
- Quy định về phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập: Để khắc phục hạn chế của Luật 2005 mà trong đó áp dụng chung một phương thức kê khai tài sản cho mọi đối tượng có nghĩa vụ kê khai, dẫn đến không tập trung được nguồn lực cho việc kiểm soát chặt chẽ người có nghĩa vụ kê khai giữ chức vụ cao hoặc công tác tại các vị trí có nguy cơ xảy ra tham nhũng cao, Điều 36 Luật PCTN 2018 quy định các phương thức kê khai áp dụng cho từng đối tượng kê khai khác nhau, gồm kê khai lần đầu, kê khai bổ sung, kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán bộ. Kê khai lần đầu áp dụng