đình nói riêng phải là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền.
Tính thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Pháp luật bình đẳng giới có được áp dụng hiệu quả trong thực tế hay không phụ thuộc cơ bản vào sự tuân thủ đảm bảo tính thống nhất của pháp luật. Thực tế ở Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành nhưng không phát huy được hiệu quả trong thực tiễn do có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản với các văn bản khác.
1.3.2.2. Đảm bảo tình toàn diện, cụ thể
Tính toàn diện, cụ thể của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật về vấn đề này phải có nội dung lôgic, toàn diện, với các chế định và quy phạm pháp luật điều chỉnh những loại hành vi cụ thể, giải quyết những vấn đề cụ thể. Nói một cách ngắn ngọn, tính toàn diện, cụ thể của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình yêu cầu các văn bản pháp luật liên quan phải bao quát hết các vấn đề về bình đẳng giới trong các lĩnh vực mà chúng điều chỉnh, phải đặt ra các quy tắc xử sự bao quát đầy đủ các tình huống có thể xảy ra, cũng như đặt ra chế tài nếu có đối với hành vi vi phạm.
Tính toàn diện, cụ thể phải đảm bảo rõ ràng bao quát đúng và đủ phạm vi cần phải điều chỉnh của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Phạm vi này được xác định đầy đủ, trong đó, là tất cả các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình có sự tham gia của nam giới và nữ giới hoặc tác động đến nam giới và nữ giới và có thể xảy ra sự phân biệt đối xử giới. Mặt khác, trong phạm vi đó, phải điều chỉnh đầy đủ, tránh bỏ sót bất kỳ vấn đề nào có thể liên quan đến sự phân biệt đối xử giới.
1.3.2.3 Đảm bảo tính đồng bộ
Tính đồng bộ của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình là yêu cầu các văn bản pháp luật liên quan phải tương thích với tất cả các thiết chế dùng để thực thi nó cũng như với toàn bộ hệ thống pháp luật.
Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình cần phải đồng bộ với hệ thống chính sách về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình nói riêng và trên tất cả các lĩnh vực nói chung. Sự đồng bộ này còn có nghĩa là pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình phải thay đổi kịp thời với sự điều chỉnh trong các chính sách có liên quan. Mặc dù các nguyên tắc nền tảng trong đường lối, chính sách về bình đẳng giới của quốc gia cơ bản thường ổn định trong khoảng thời gian dài nhưng những nội dung cụ thể của nó lại có sự thay đổi khá thường xuyên, điều này đòi hỏi pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình phải bắt kịp thời để điều chỉnh cho phù hợp.
1.3.2.4. Đảm bảo về kỹ thuật lập pháp
Mặc dù kỹ thuật lập pháp là vấn đề thuộc về hình thức thể hiện của pháp luật nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó quyết định đến sự thể hiện và truyền tải nội dung pháp luật đến các đối tượng tác động và các chủ thể có trách nhiệm thực thi pháp luật. Kỹ thuật lập pháp chuyên nghiệp, mang tính kỹ thuật cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong kỹ thuật lập pháp phải hết sức chú ý đến các yếu tố về bố cục trình bày, cách sử dụng ngôn ngữ và cách hành văn. Về mặt bố cục, cấu trúc của các chế định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình phải hết sức rõ ràng, dễ tiếp cận và đi từ các quy định chung đến các quy định cụ thể. Ngôn
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận Thức Về Giới Và Bình Đẳng Giới
- Bản Chất Và Các Yếu Tố Đánh Giá Bình Đẳng Giới
- Quyền Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Dân Sự, Hôn Nhân Và Gia
- Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Dân Sự, Hôn Nhân Và Gia Đình Ở Việt Nam
- Các Nguyên Tắc Cơ Bản Về Bình Đẳng Giới Trong Pháp Luật Việt
- Các Quy Định Của Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Hôn Nhân Và Gia Đình
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, logic, chính xác và một nghĩa, hành văn phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
Việc xây dựng và ban hành pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình có chất lượng tốt, có sức sống lâu bền, có tính phổ thông đại chúng, mọi người dễ tiếp cận và thực hiện trong cuộc sống, ít phải sửa đổi phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật nói chung.
1.3.2.5. Đảm bảo phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế
Cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc hội nhập trong đảm bảo quyền con người và pháp luật quốc tế ngày càng được đẩy mạnh. Các quốc gia ngày càng tăng cường tham gia xây dựng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người. Các điều ước này hiện đã trở thành tiêu chuẩn chung cho sự hợp tác quốc tế, là yêu cầu cho việc sự hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia.
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, nhờ đó ngày càng tăng cường, nâng cao vị thế của đất nước trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới. Pháp luật là một lĩnh vực quan trọng mà Việt Nam hướng đến để hội nhập, trong đó Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế, cả song phương và đa phương về các vấn đề quyền con người, bao gồm nhiều điều ước trực tiếp đề cập đến việc bảo vệ quyền bình đẳng giới, tiêu biểu là Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979.
Nguyên tắc và yêu cầu cơ bản khi tham gia các điều ước quốc tế là pháp luật quốc gia phải sửa đổi để phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia, hoặc chí ít, các quy định của điều ước quốc tế sẽ loại trừ các quy định của pháp luật quốc gia có nội dung trái với nó. Chính vì vậy, điều này đòi hỏi pháp luật quốc gia nói chung, pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực dân sự, hôn nhân và gia đình nói riêng phải đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
1.3.2.6. Đảm bảo tính khả thi
Tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được xem trọng và là yếu tố cốt yếu trong xây dựng pháp luật. Quy phạm pháp luật được đặt ra là để mọi người thực hiện, vì vậy, pháp luật phải dự kiến được khả năng thực hiện các quy tắc xử sự được đề ra. Hiệu quả thực hiện pháp luật phụ thuộc vào tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Tính khả thi của các quy phạm pháp luật nói chung, quy phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như điều kiện vật chất để thực hiện, khả năng nhận thức của chủ thể thực hiện, truyền thống dân tộc, văn hóa của xã hội… Những yếu tố này là tùy biến và phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức của các chủ thể ban hành. Tuy nhiên, một nguyên tắc chung bất di bất dịch mà chủ thể ban hành hay chủ thể thực hiện đều phải chú trọng đó là “pháp luật được đặt ra để thực hiện và muốn thực hiện được phải trong khả năng cho phép và xã hội chấp nhận được”. Nếu không nhận thức được điều này, pháp luật được ban hành ra sẽ không thể đi vào cuộc sống, có thể do quá mức đáp ứng của xã hội hoặc do không cần thiết bởi các mục tiêu mà pháp luật điều chỉnh hướng tới đều đã có và cần thiết phải thực hiện các mục tiêu khác.
1.4. Quyền bình đẳng giới trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia.
Bình đẳng giới không phải là vấn đề riêng của mỗi quốc gia, mà đó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Xuất phát từ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ diễn ra ở khắp nơi trên thế giới nên ngay từ khi thành lập, Liên Hợp Quốc đã xác định rõ một mục tiêu hành động của tổ chức này là bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Tại Điều 1 Hiến chương Liên Hợp Quốc
quy định:“… khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Quyền bình đẳng giới sau đó tiếp tục được khẳng định và ghi nhận trong Điều 2 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền: “Mọi người đều được hưởng các quyền tự do nêu trong bản tuyên ngôn này, không có bất kì sự phân biệt đối xử nào về màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến, hay quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, giống nòi hay các tình trạng khác”.
Ngày 10/12/1979, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước về việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) . Sự ra đời của CEDAW xuất phát từ nhận thức quan trọng của cộng đồng quốc tế về quyền con người, đó là bình đằng trở thành thước đo giá trị của phẩm giá và quyền cơ bản của con người trong xã hội. Trên bình diện pháp luật, bình đẳng là nguyên tắc của luật quốc tế về quyền con người, được ghi nhận trong hàng loạt các văn kiện quốc tế quan trọng trước khi CEDAW ra đời.
Là điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực quyền con người, ngoài Lời mở đầu, CEDAW chia thành 6 phần với 30 điều khoản. Nội dung cơ bản hướng vào cách thức, biện pháp nhằm loại trừ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thụ hưởng các quyền con người cơ bản đã được xác định bởi các điều ước quốc tế về nhân quyền khác. CEDAW nhằm trao cho phụ nữ trên toàn thế giới những quyền con người đã được luật quốc tế và luật quốc gia ghi nhận nhưng phụ nữ chưa được hưởng hoặc chưa được hưởng một cách đầy đủ trên thực tế bởi sự phân biệt đối xử với phụ nữ ở các quốc gia. Với cách tiếp cận đó, CEDAW chỉ ra những lĩnh vực cụ thể hiện đang tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ một cách nặng nề để từ đó xác định những biện pháp thích hợp nhằm loại bỏ hoàn toàn tình trạng bất bình đẳng của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội [1, trang 4].
Mặc dù vậy, cũng cần lưu ý là CEDAW không quy định các quyền con người mới của phụ nữ mà CEDAW tập trung đề ra cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người đã được thừa nhận trong các điều ước quốc tế khác. CEDAW cũng không bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội mà chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực có sự phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ như hôn nhân và gia đình, quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sống chính trị, giáo dục đào tạo, y tế đồng thời xác định những cách thức, biện pháp để xóa bỏ những sự phân biệt đối xử đó.
Đối với lĩnh vực dân sự, CEDAW không điều chỉnh riêng ở một quy định chung, thống nhất mà các quy định của CEDAW điều chỉnh trong lĩnh vực dân sự lại nằm rải rác ở nhiều quy định khác nhau. Trong đó, tập trung nhất và nổi bật nhất là điều chỉnh về vấn đề bình đẳng giới của phụ nữ đối với quốc tịch. Quốc tịch là quyền nhân thân cơ bản của con người, của công dân. Nó rất có ý nghĩa bởi đây là cơ sở để một cá nhân được hưởng quyền công dân của một quốc gia. Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng về vấn đề quốc tịch hoặc liên quan đến quốc tịch như phụ nữ lấy chồng phải thay đổi quốc tịch theo quốc tịch của chồng, hoặc trong trường hợp vợ chồng có hai quốc tịch khác nhau, con sinh ra phải theo quốc tịch của cha... vẫn còn diễn ra phổ biến. Đặc biệt trong giai đoạn các quốc gia hội nhập. Vì vậy, Điều 9 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong việc nhập, thay đổi, giữ quốc tịch mà không phụ thuộc vào quốc tịch của chồng hoặc của cha, đặc biệt trong trường hợp phụ nữ kết hôn với người nước ngoài. Điều này cũng đảm bảo cho phụ nữ bình đẳng với chồng của họ trong việc xác định quốc tịch của con.
Đối với vấn đề hôn nhân và gia đình, khác với lĩnh vực dân sự, nhận định thực tế trong hầu hết các xã hội, phụ nữ thường phải chịu sự đối xử bất
bình đẳng ngay trong gia đình, thể hiện ở các khía cạnh hôn nhân cưỡng bức, phụ nữ không có quyền quyết định trong các vấn đề liên quan đến con cái, quản lý và phân chia tài sản... Nguyên nhân của sự phân biệt đối xử này thường bắt nguồn từ các tập tục truyền thống, là khía cạnh khó tác động và có sức ỳ cao nhất. Tuy nhiên, nếu thiết lập được bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình lại là yếu tố mang tính quyết định mang lại sự bình đẳng cho nữ giới một cách đầy đủ với nam giới. Điều 16 CEDAW đề cập đến các khía cạnh bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như sau:
- Bình đẳng về kết hôn: phụ nữ phải được tự do quyết định việc kết hôn và lựa chọn người phối ngẫu. Vấn đề này liên quan đến trách nhiệm của các nhà nước trong việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu, việc đăng ký kết hôn, chế độ hôn nhân tự nguyện, cấm chế độ đa thuê, cấm việc tảo hôn...
- Bình đẳng trong hôn nhân và khi hôn nhân kết thúc: phụ nữ phải được bình đẳng với chồng cả trong thời gian hôn nhân và khi đã ly hôn. Điều này liên quan đến một loạt vấn đề như quản lý tài sản chung trong gia đình, quyền và trách nhiệm đối với con cái, xác định số con và khoảng cách giữa các lần sinh, việc cho – nhận con nuôi...
Ủy ban CEDAW cũng đã ban hành Khuyến nghị chung số 19 và Khuyến nghị chung số 21 để khuyến nghị các quốc gia thành viên của công ước thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng giới của phụ nữ tại quốc gia, được nội luật hóa cũng như thực hiện trên thực tế.
CEDAW là thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài với một thực tế đã tồn tại từ nhiều thế kỉ ở hầu hết các châu lục, đó là tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ - những người chiếm đến hơn một nửa của thế giới nhưng hầu như chưa một quốc gia nào đối xử với họ một cách xứng đáng.
Đến nay, đã có ¾ số quốc gia Liên Hợp Quốc tham gia CEDAW và để thực hiện công ước này, rất nhiều nước đã ban hành luật bình đẳng giới. Luật
bình đẳng giới đã có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ ở nhiều quốc gia. Hai nước Phần Lan và Thụy Sỹ đã có Luật Bình đẳng giới cách đây từ 10 đến 20 năm. Phụ nữ hai nước có sự tiến bộ rõ nét, cả hai nước đều có nhiều phụ nữ đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong Quốc hội, trong Chính phủ. Phần Lan là một trong những nước phát triển nhất ở Bắc Âu và Thụy Sỹ là một trong những nước phát triển nhất ở Trung Âu. Cả hai nước đều theo chế độ cộng hoà, quyền lập pháp thuộc về Quốc Hội và Tổng thống. Luật Bình đẳng giới của Phần Lan, Thụy Sỹ đã thực sự đi vào cuộc sống vừa chi phối vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Các luật, chính sách ban hành sau Luật Bình đẳng giới đều được Quốc hội xem xét rất kỹ nếu có những quy định nào đó thể hiện sự bất bình đẳng giới đều không được quốc hội thông qua. Luật Bình đẳng giới đã đề cập đến vấn đề bình đẳng nam nữ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là vấn đề tiền lương, thu nhập, vấn đề lao động việc làm, quyền thừa kế tài sản, trong đào tạo tuyển dụng lao động…Chẳng hạn, trong tất cả các thông báo tuyển dụng lao động hay tuyển sinh đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ quan đơn vị từ trung ương đến địa phương, kể cả các cơ sở sản xuất kinh doanh đều không được trái với luật bình đẳng giới, không có sự phân biệt đối xử nam, nữ như cấm thông báo tuyển dụng có sự phân biệt đối xử và không một thông báo tuyển dụng lao động, tuyển sinh đào tạo nào được phép áp dụng riêng cho nam hoặc nữ. Luật bình đẳng giới của hai nước này thậm chí còn cấm cả những tập tục truyền thống có tính chất phân biệt đối xử về giới. Ở Phần Lan còn quy định ở các cơ quan hoạch định, ban hành chính sách, các cơ quan công quyền phải đảm bảo tỷ lệ nam - nữ là 50-50. Người chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ thức đẩy bình đẳng giới, các doanh nghiệp có từ 30 lao động trở lên phải có kế hoạch thực hiện bình đẳng giới, các cơ quan chức năng của chính phủ thông qua thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện đơn vị nào vi