dụng ERP là phải thiết kế quy trình chuẩn cho các hoạt động đồng thời yêu cầu nhân viên toàn doanh nghiệp (không chỉ đơn thuần là nhân viên kế toán) vận hành đúng quy trình này khi thao tác nghiệp vụ. Bên cạnh đó, nhà quản lý cần xác định rõ cơ cấu tổ chức trong hiện tại và tương lai đồng thời mô tả rõ các công việc và trách nhiệm tương ứng của từng bộ phận, phòng, ban khi tham gia việc tạo lập và xử lý dữ liệu trong ERP. Yêu cầu đặt ra đối với việc ứng dụng ERP là quản lý đồng bộ, khoa học và kiểm soát chặt chẽ hơn toàn bộ hệ thống thông tin trong đó thông tin kế toán là nội dung cốt lõi nên bộ phận kế toán của doanh nghiệp phải đảm nhiệm cả vai trò kiểm soát các hoạt động kinh doanh thông qua các số liệu mà ERP phản ánh.
Khó khăn lớn nhất khi áp dụng ERP là doanh nghiệp phải chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được các yêu cầu của ERP. Chuẩn hoá quy trình các hoạt động sẽ làm thay đổi tư duy làm việc của mọi cá nhân và bộ phận trong tổ chức. Chính vì vậy, chính sách nhân sự của doanh nghiệp cần đổi mới về chính sách nhân sự trong các khâu tuyển dụng, đào tạo lao động, khen thưởng, đãi ngộ,… hợp lý nhằm động viên, khích lệ sự quyết tâm, nỗ lực của các nhân viên, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên hoà nhập với quy trình hoạt động đã được chuẩn hoá. Đặc biệt, đội ngũ nhân viên kế toán của doanh nghiệp cần trang bị đầy đủ các kỹ năng cần thiết để thực hiện quy trình tác nghiệp chặt chẽ với khối lượng thông tin đầu vào lớn nhằm đảm bảo phản ánh kịp thời và trung thực thông tin kế toán nói riêng và kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung trong từng giai đoạn trên hệ thống ERP.
Công nghệ thông tin được coi là chìa khoá vàng giúp cho doanh nghiệp mở cửa hội nhập và cạnh tranh với thế giới. Hiện nay ngoài các doanh nghiệp chủ lực như May Nhà Bè, May Việt Tiến, May 10, Công ty May Tiền Tiến,… đã mạnh dạn đầu tư áp dụng các phần mềm hiện đại trong quản lý sản xuất, hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam vẫn tỏ ra yếu kém khi chưa áp dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động của mình. Nguyên nhân cơ bản cho thực tế này xuất phát từ hạn chế về năng lực tài chính của các doanh nghiệp may mặc. Tuy nhiên, nếu nhà quản lý thực sự mong muốn áp dụng trong khi ngân sách có giới hạn thì họ vẫn có cách thức và hướng đi hợp lý để tiếp cận công nghệ thông tin hiện đại với điều kiện phải tìm hiểu, nghiên cứu và lựa chọn áp dụng phù hợp với hoàn cảnh của đơn vị.
Áp dụng hệ thống thông tin quản lý tích hợp ERP với chi phí đầu tư lớn chỉ phù hợp với các doanh nghiệp may mặc có quy mô lớn và có khả năng tài chính dồi dào, đã có lợi thế trong việc áp dụng ISO 9000 hoặc công cụ quản lý hiện đại (quy trình hoạt động đã được chuẩn hoá), chẳng hạn như May Việt Tiến, May Nhà Bè, hoặc May Tiền Tiến,.. (là những doanh nghiệp nằm trong 10 doanh nghiệp tiêu biểu của ngành Dệt và May). Các doanh nghiệp khác có thể lựa chọn áp dụng ERP cho mình nhưng nguồn gốc xuất xứ của phần mềm này có thể là các nhà sản xuất phần mềm nội với giá cả cạnh tranh hơn rất nhiều. Tuy nhiên phần mềm nội có đặc điểm còn thô sơ, đơn giản, chưa đảm bảo kết nối tất cả các chức năng chính của doanh nghiệp vào trong cùng một hệ thống với tốc độ xử lý thông tin chậm.
Trong trường hợp nhà quản lý của doanh nghiệp may mặc chọn hướng áp dụng phần mềm theo một số công đoạn hoặc chức năng cơ bản trong kinh doanh, họ có thể áp dụng CAD hoặc CAM để việc thiết kế sản phẩm, cắt và trải vải được thực hiện một cách tự động, hoặc đầu tư dây chuyền treo tự động theo từng giai đoạn. Một số các nhà sản xuất phần mềm nhanh nhạy với thời cuộc bằng cách cung cấp các sản phẩm cho doanh nghiệp may mặc với hình thức trả góp. Như vậy, cả nhà sản xuất phần mềm và doanh nghiệp áp dụng đã lựa chọn cho mình hướng đi trong kinh doanh rất hợp lý.
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện thủ tục kiểm soát
Trước hết, cần áp dụng đúng đắn các nguyên tắc bất kiêm nhiệm, phân công phân nhiệm, uỷ quyền và phê chuẩn trong thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát
Kết quả điều tra tại Chương 2 cho thấy, ngoài các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam, các doanh nghiệp khác trong Ngành chưa xây dựng quy chế quản lý tài chính tại đơn vị mình. Để hoạt động tài chính lành mạnh, đi vào nền nếp, nhà quản lý trong các doanh nghiệp cần nâng cao ý thức hơn nữa về tầm quan trọng của kiểm soát tài chính, đồng thời chỉ đạo triển khai nghiên cứu, xây dựng và áp dụng quy chế quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm của đơn vị. Quy chế tài chính được xây dựng cần áp dụng đúng đắn các nguyên tắc cơ bản như phân công, phân nhiệm; uỷ quyền, phê chuẩn và bất kiêm nhiệm.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Giải Pháp Hoàn Thiện Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Trong Các Doanh Nghiệp May Việt Nam
- Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam - 27
- Kết Quả Điều Tra Về Số Lượng Kiểm Toán Viên Nội Bộ Theo Quy Mô Do Ifac Thực Hiện
- Xây Dựng Hệ Thống Tiêu Chí Để Đo Lường Và Đánh Giá Các Hoạt Động Trong Doanh Nghiệp May Mặc Việt Nam
- Tiêu Chí Đánh Giá Việc Lập Và Thực Hiện Kế Hoạch Sản Xuất
- Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam - 32
Xem toàn bộ 308 trang tài liệu này.
Mặc dù hoạt động tài chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thuộc đối tượng và phạm vi áp dụng Nghị định 09/2009/NĐ - CP do Chính phủ ban hành ngày 5 tháng 2 năm 2009 về “Ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác” cùng các văn bản hướng dẫn liên quan, tuy nhiên, khi nghiên cứu và xây dựng quy chế quản lý tài chính, các doanh nghiệp có thể tham khảo Nghị định này nhằm đảm bảo yêu cầu: quy chế được thiết kế phải bao quát hết toàn bộ các nội dung cần kiểm soát trong quản lý tài chính. Theo đó, quy chế dự kiến sẽ bao gồm các phần cơ bản như Chương I: Những quy định chung; Chương II: Quy chế quản lý tài chính của công ty; Chương III: Điều khoản thi hành. Chương II thể hiện nội dung quan trọng và chủ yếu nhất của quy chế liên quan đến các chính sách và thủ tục trong: quản lý vốn của doanh nghiệp (sử dụng vốn, huy động vốn, đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp, bảo toàn vốn, các khoản nợ phải trả); quản lý và sử dụng tài sản tại doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định, hàng tồn kho, các khoản nợ phải thu (đầu tư, cho thuê, cầm cố, thế chấp, thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, kiểm kê tài sản, xử lý tổn thất tài sản, đánh giá lại tài sản); quản lý doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh; phân phối lợi nhuận,.. Các nội dung về quản lý kế hoạch tài chính, chế độ kế toán, thống kê và kiểm toán; quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của ban quản lý điều hành doanh nghiệp (hội đồng quản trị, ban giám đốc…) cũng cần được quy định rõ tại Chương này.
Việc ban hành và áp dụng quy chế quản lý tài chính là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong trường hợp loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần có nhiều cổ đông góp vốn hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều thành viên. Trong trường hợp này hoạt động tài chính của doanh nghiệp được nhiều bên quan tâm, vì vậy việc kiểm soát tài chính chặt chẽ, minh bạch, có hiệu quả sẽ tạo niềm tin cho những người có lợi ích liên quan đến doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp lớn, có nhiều đơn vị thành viên, địa bàn hoạt động phân tán, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực là những đặc điểm cho thấy cần thiết phải xây dựng và áp dụng quy chế tài chính, trong đó chú trọng đến việc phân cấp quản lý tài chính phù hợp với từng loại hình hoạt động và cơ chế đầu tư tài chính của doanh nghiệp đối với các đơn vị thành viên. Tuy nhiên, việc xây dựng và áp dụng quy chế quản lý tài chính có thể phức tạp
với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn và có hoạt động đơn giản. Trong trường hợp này, doanh nghiệp có thể lựa chọn thiết kế và áp dụng quy chế chi tiêu nội bộ trong quản lý tài chính tại đơn vị.
Ngay cả với các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam hiện nay, quy chế quản lý tài chính đã được xây dựng và vận dụng vẫn còn thể hiện sự hạn chế do chưa cập nhật các văn bản pháp lý hiện hành (đã được đề cập ở Mục 2.2.3.1). Vì vậy, trong thời gian tới, quy chế quản lý tài chính của các doanh nghiệp như May 10, May Nhà Bè, May Việt Tiến,… cần được sửa đổi cho phù hợp với Nghị định 09/2009/NĐ - CP của Chính phủ về việc “Ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác” cùng với các thông tư hướng dẫn tương ứng của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này cần tăng cường tính hiệu lực trong thực hiện quy chế tài chính đã được xây dựng thông qua thực hiện cách thức kiểm tra, kiểm soát phù hợp với mối liên hệ giữa công ty mẹ với công ty con đã được xác lập trên tỷ lệ vốn góp (có sự khác biệt giữa công ty con mà công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không nắm giữ cổ phần chi phối).
Trong quản lý các hoạt động của doanh nghiệp, việc thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát cũng cần áp dụng đúng đắn các nguyên tắc phân công phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn. Với các thủ tục kiểm soát liên quan đến các quá trình hoạt động cần phân định rõ công việc và trách nhiệm của từng bộ phận có liên quan trong thực hiện chức năng phù hợp theo trình tự thực hiện hoạt động. Chẳng hạn, với mua hàng, cần quy định rõ chức năng xác định nhu cầu, lập dự trù chi phí thuộc về bộ phận cung ứng, việc ghi nhận và thanh toán với nhà cung cấp thuộc chức năng của bộ phận kế toán. Nguyên tắc uỷ quyền cũng cần được thực hiện nghiêm túc nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát nghiệp vụ trước khi nó được phép xảy ra. Với mua hàng, nhà quản lý phải thực hiện việc xét duyệt nhu cầu và kế hoạch mua hàng trên cơ sở các thông tin tin cậy nhằm đảm bảo việc mua là thực sự hợp lý. Bên cạnh đó, nguyên tắc bất kiêm nhiệm cũng phải được áp dụng nhằm tách bạch các chức năng thực hiện nghiệp vụ, ghi sổ và bảo quản tài sản. Vì vậy với mua hàng, khi hàng về đến doanh nghiệp, bộ phận kiểm nhận cần phải độc lập với bộ phận kho, bộ phận kế
toán và bộ phận cung ứng thì kết quả kiểm nhận mới đảm bảo tính khách quan. Đây chỉ là ví dụ minh hoạ về áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong thiết kế các thủ tục kiểm soát với giai đoạn cung ứng của quá trình kinh doanh. Ở tất các chu trình hoạt động cơ bản của doanh nghiệp, đều cần phải áp dụng tốt ba nguyên tắc này thì kiểm soát mới đảm bảo được tính hiệu lực và hiệu quả.
Tiếp theo, cần hoàn thiện thủ tục kiểm soát đối với các hoạt động cơ bản
Hiện nay, quá trình sản xuất kinh doanh và các nguồn lực đảm bảo việc thực hiện quá trình kinh doanh luôn được nhà quản lý trong các doanh nghiệp may quan tâm, coi trọng kiểm tra, kiểm soát. Tuy nhiên, việc phân tích kết quả khảo sát tại Chương 2 cho thấy vẫn còn tồn tại các lỗ hổng trong kiểm soát tài sản, trong mua hàng, trong thanh toán, trong kiểm soát chi phí sản xuất… Chính vì vậy, cần phải thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát đầy đủ liên quan đến nguồn lực và các giai đoạn cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Việc thiết kế thủ tục kiểm soát đối với các hoạt động cơ bản cần tôn trọng các nguyên tắc như phân công phân nhiệm, bất kiêm nhiệm, uỷ quyền và phê chuẩn. Cụ thể:
Một là, thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát đối với tài sản trong sản xuất gia công
Kiểm soát tài sản ở các doanh nghiệp may nói chung và kiểm soát nguyên vật liệu được giao nhận từ phía khách hàng thể hiện yếu điểm. Để bảo vệ tài sản trong sản xuất gia công, trước hết cần áp dụng tốt nguyên tắc phân công phân nhiệm nhằm xác định rõ trách nhiệm của của các bộ phận trong doanh nghiệp tương ứng với quá trình luân chuyển nguyên vật liệu và chứng từ kèm theo. Theo đó, các vòng kiểm soát được chú ý thiết lập từ khi nguyên vật liệu được nhập kho và bảo quản tại kho căn cứ vào phiếu nhập kho, sau đó được xuất kho (kèm theo phiếu xuất kho) và giao nhận đến các tổ đội sản xuất trên cơ sở các chứng từ giao nhận. Tiếp theo, trách nhiệm bảo vệ nguyên vật liệu và bán thành phẩm được trao cho từng tổ sản xuất từ tổ cắt đến chuyền may theo từng ngày hoặc từng ca sản xuất, cho đến khi chúng được là, gấp, kiểm nhận chất lượng và đóng gói tại bộ phận đóng gói. Các định mức kỹ thuật về kiểm soát nguyên vật liệu cần được xác định rõ ràng và hợp lý trên cơ sở thông số của sản phẩm mẫu, chẳng hạn định mức hao hụt cho phép với nguyên vật liệu trong toàn bộ quá trình sản xuất khống chế ở mức tối đa từ 2% đến
3% (phù hợp với thông lệ chung của Ngành). Trên phạm vi quản lý tài sản của toàn bộ nhà máy, bộ phận bảo vệ là nhân tố tích cực để hạn chế hoặc phòng trừ nguy cơ mất mát, thiếu hụt tài sản bằng cách kiểm soát mọi trường hợp người vào và ra khỏi doanh nghiệp.
Việc xác định các bộ phận có trách nhiệm lập, duyệt các chứng từ và quy trình luân chuyển chứng từ rõ ràng, hợp lý là cần thiết nhằm áp dụng tốt nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong kiểm soát tài sản tại các doanh nghiệp may gia công. Với bộ phận kỹ thuật, các số liệu nhập hàng sẽ được thu nhận để lên “Bảng hoặc Sổ cân đối vật tư cho sản xuất”. Với bộ phận kho, căn cứ vào “Biên bản kiểm nghiệm vật tư, công cụ, sản phẩm, hàng hoá” và “Phiếu nhập kho”, số liệu hàng nhập được ghi vào thẻ kho và sổ kho. Với bộ phận kế toán, số nguyên vật liệu này được coi là hàng tạm nhập tái xuất, được theo dõi trên tài khoản ngoài bảng (Tài khoản 002: Vật tư hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công). Căn cứ và “Lệnh sản xuất đơn hàng” được nhà quản lý phê duyệt và định mức sử dụng, nhân viên kho thực hiện việc cấp phát nguyên vật liệu cho các tổ hoặc chuyền sản xuất. Các tài liệu dùng để kiểm soát những tài sản này được thiết kế liên quan đến từng khâu công việc cụ thể trong quá trình sản xuất sản phẩm như: “Sổ phát nguyên vật liệu” hoặc “Sổ giao nhận nguyên vật liệu” được nhân viên kho lập. Công đoạn cắt được theo dõi bằng “Phiếu theo dõi bàn cắt”. Tại các tổ hoặc chuyền may, tổ trưởng hoặc tổ phó có trách nhiệm ghi nhận vào “Sổ theo dõi sử dụng nguyên vật liệu” và “Bảng thống kê chi tiết nhập trả”. Tại công đoạn là, đóng gói, các tài liệu được sử dụng để kiểm soát bán thành phẩm hoặc thành phẩm cũng được thiết kế tương tự. Thông qua việc đối chiếu số liệu đầu vào (các tài liệu được liệt kê ở trên) và đầu ra của từng công đoạn (nhờ có “Phiếu sản xuất bán thành phẩm” được lập và kiểm tra ở từng công đoạn), nhà quản lý có thể phát hiện được các trường hợp mất mát hoặc thất thoát tài sản kịp thời. Những trường hợp nguyên vật liệu, bán thành phẩm hoặc thành phẩm mất hoặc hỏng phải tìm rõ nguyên nhân để xử lý.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm cũng cần được áp dụng nhằm hạn chế yếu điểm trong kiểm nhận nguyên vật liệu. Doanh nghiệp nên thiết lập bộ phận kiểm nhận độc lập, không kiêm nhiệm với bộ phận kho hàng nhằm đảm bảo độ tin cậy và khách quan của số liệu kiểm nhận. Số lượng nhân viên của bộ phận cần được biên
chế phù hợp với khối lượng, chủng loại nguyên phụ liệu được kiểm nhận để tránh quá tải trong công việc. Các chứng từ kiểm nhận như “Biên bản kiểm nghiệm vật tư, công cụ, sản phẩm, hàng hoá” phải được lập và lưu giữ đầy đủ trong hồ sơ nhận hàng. Trong trường hợp phát hiện thấy số lượng nguyên phụ liệu bị thiếu, chất lượng không đảm bảo yêu cầu, hàng không đúng quy cách kỹ thuật, phải lập ngay biên bản và báo cáo kịp thời cho nhà quản lý doanh nghiệp được biết để xử lý. Những phát hiện cần được lưu giữ bằng văn bản (thường có xác nhận giữa hai bên giao và nhận hàng) làm cơ sở để giải quyết những thiệt hại không đáng có có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các thủ tục kiểm soát nhằm bảo toàn chất lượng và giá trị của nguyên phụ liệu, bán thành phẩm, thành phẩm cũng cần được quan tâm thiết kế. Các doanh nghiệp may trong Ngành có thể học tập kinh nghiệm của May Việt Tiến và một số doanh nghiệp khác đã áp dụng thành công công cụ quản lý 5S (đã đề cập ở trên) trong thiết kế thủ tục kiểm soát.
Hai là, thiết kế và vận hành thủ tục trong kiểm soát quá trình mua hàng
Kết quả khảo sát và phân tích thực trạng cho thấy thủ tục kiểm soát đối với mua hàng trong các doanh nghiệp may chưa được thiết kế đầy đủ và bao quát toàn bộ các bước công việc cơ bản theo trình tự thực hiện quá trình mua. Chính vì vậy, thủ tục kiểm soát được đề xuất nhằm hoàn thiện kiểm soát quá trình mua hàng bao gồm:
Xác định nhu cầu, lập kế hoạch và phê duyệt hàng mua: Việc thiết kế cần đảm bảo vận dụng nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn; nguyên tắc phân công phân nhiệm và bất kiêm nhiệm. Cụ thể, các chứng từ thể hiện nhu cầu mua hàng như “Đơn đề nghị mua” phải được bộ phận, cá nhân có nhu cầu về hàng hoá, vật tư lập, có chữ ký xác nhận của trưởng bộ phận đó. Nhằm tránh lãng phí trong chi tiêu và khẳng định nhu cầu mua hàng thực sự tồn tại, chứng từ đề nghị mua hàng cần được đính kèm với báo cáo xác nhận số lượng hàng tồn của bộ phận có chức năng quản lý hàng hoá đó. Thông thường, Phòng Kế toán tài chính được chỉ định để lập kế hoạch tài chính hoặc dự toán các khoản chi mua sắm theo tháng, quý, năm. Khi các bộ phận hoặc cá nhân đề xuất mua hàng thực tế phải trình giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) ký duyệt, kèm theo là kế hoạch hoặc dự toán tài chính đã được lập và
duyệt trước đó làm căn cứ để đối chiếu. Như vậy, thẩm quyền của nhà quản lý phải được xác định rõ ràng từ khi lập kế hoạch cho đến lúc yêu cầu mua được phê duyệt. Để thiết kế các thủ tục này, cách tốt nhất là doanh nghiệp may cần xây dựng và ban hành quy chế quản lý tài chính rõ ràng, trong đó có nội dung quy định về trình tự và thủ tục thực hiện đối với quá trình mua hàng.
Đánh giá và lựa chọn nhà cung cấp: Mua sắm thể hiện mối quan hệ của doanh nghiệp với nhà cung cấp, đồng thời tiềm ẩn nhiều gian lận và sai sót có thể xảy ra gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Để giảm thiểu rủi ro, cần thiết kế thủ tục đánh giá và lựa chọn nhà cung ứng phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. Trách nhiệm chính trong đánh giá và lựa chọn nhà cung cấp cần được giao cụ thể cho bộ phận cung ứng tại doanh nghiệp đảm nhận. Việc lựa chọn nhà cung cấp có thể theo một trong nhiều hình thức tuỳ thuộc vào từng loại nguyên vật liệu đầu vào cần mua và cách thức lựa chọn trong từng doanh nghiệp. Thông thường, doanh nghiệp may mặc có thể áp dụng một trong các cách sau đây:
Hỏi hàng và yêu cầu báo giá mới nhất của nhà cung cấp với số lượng nhà cung cấp tối thiểu được nhà quản lý doanh nghiệp quy định, từ đó lựa chọn ra nhà cung ứng với mức giá thấp nhất để tiết kiệm chi phí. Khi lựa chọn, cần chú trọng những loại hàng hoá hoặc dịch vụ mới, nhà cung cấp mới để phòng tránh các rủi ro liên quan đến hàng mua và thanh toán.
Tổ chức đấu thầu để lựa chọn: Việc đấu thầu phải tuân thủ Luật Đấu thầu và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, phương thức này thường áp dụng khi doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư tài sản cố định, ít được lựa chọn để áp dụng khi cung ứng nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
Đánh giá nhà cung ứng theo các tiêu chuẩn được thiết lập: Cách thức này thường được áp dụng đối với nhà cung cấp mới, chưa có trong danh sách các nhà cung cấp được phê duyệt hoặc các nhà cung cấp quen thuộc nhưng cần phải đánh giá lại. Đánh giá có thể được thực hiện định kỳ (chẳng hạn theo quý hoặc theo năm) hoặc đánh giá bất thường (chẳng hạn đã thực hiện việc cung cấp cho doanh nghiệp nhưng liên tiếp vi phạm một loại lỗi,… ). Việc đánh giá được thực hiện bằng hình thức cho điểm và phân loại nhà cung cấp theo nhiều tiêu chí đánh giá khác nhau như: khả năng cung cấp, chất lượng cung cấp, đơn giá, điều kiện thanh toán, các