Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hệ Thống Đảm Bảo Chất Lượng Đào Tạo Của Trường Đại Học

độ quan trọng và mức độ đạt được của SVTN;

- CSGD tiến hành xây dựng quy trình, kế hoạch thu thập, xử lý thông tin đảm bảo tính khoa học, minh bạch và độ tin cậy;

2) Tổ chức thực hiện: công tác tổ chức thực hiện bao gồm:

- CSGD tiến hành tổ chức phổ biến, đào tạo và hướng dẫn nhân sự thực hiện hoạt động thu thập và xử lý thông tin điều tra khảo sát, … theo quy trình, quy định đã công bố: giúp cho nhân sự hiểu rõ mục đích thực hiện các hoạt động này, các biện pháp ngăn ngừa lỗi, các thao tác và việc cần làm khi thực hiện quy trình.

- CSGD tiến hành tổ chức và chỉ đạo thực hiện quy trình, kế hoạch thực hiện thu thập thông tin và xử lý kết quả điều tra khảo sát. Kết quả điều tra khảo sát phải phân tích được thực trạng tình hình việc làm, mức độ đạt được cũng như đánh giá về mức độ quan trọng của CĐR trong CTĐT của SVTN.

3) Đánh giá mức độ thực hiện: CSGD tiến hành các hoạt động giám sát, đo lường, đánh giá việc thực hiện quy trình: đối chiếu chuẩn, quy trình, kế hoạch, … đã xác định hoặc ban hành. Ban Giám hiệu hoặc đơn vị chuyên trách thực hiện việc giám sát, đo lường, đánh giá quá trình thực hiện quy trình khảo sát SVTN và kết quả đạt được.

Có thể thấy, để hệ thống ĐBCL đào tạo được vận hành tốt, cần có một quá trình xây dựng và phấn đấu lâu dài của nhà trường bao gồm ban giám hiệu, cán bộ quản lý, GV và chuyên viên.

1.6. Yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo của trường đại học

* Các yếu tố khách quan

Thứ nhất: Trình độ phát triển kinh tế - xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.

Ở thế kỷ XXI, nhân loại đứng trước một bối cảnh lịch sử mới và đối mặt với những thách thức chưa từng có. Sự chuyển biến từ thời kỳ công nghiệp sang thời kỳ phát triển của khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng đã tác động đến tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của nhân loại, dẫn đến sự thay đổi căn bản các đặc tính văn hóa và giáo dục đã được hình thành qua nhiều thế hệ ở từng quốc gia và

trên toàn thế giới. Giáo dục đại học cung cấp nguồn nhân lực và nhân tài cho sự phát triển của khoa học công nghệ, mặt khác sự phát triển của khoa học công nghệ lại tác động vào toàn bộ cơ cấu hệ thống giáo dục, đòi hỏi GDĐH phải luôn tự mình vận động và phát triển đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế - xã hội.

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế tri thức, hệ thống ĐBCL đào tạo trong trường đại học đang phải có giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài. Hệ thống ĐBCL đào tạo phải bám sát với yêu cầu, đòi hỏi của phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư cho hệ thống ĐBCL phải phù hợp với người học chứ không phải là sự áp đặt máy móc bắt người học phải tuân theo, phải phục vụ xã hội, là công cụ để sáng tạo và phổ biến tri thức khoa học, đưa tri thức khoa học đến với mọi người. Các chính sách ĐBCL phải chú ý phối hợp hài hòa cả ba mục đích là: công bằng, thích hợp và chất lượng. Cần có cách tiếp cận phát triển hệ thống ĐBCL đào tạo thích hợp với từng nhóm đối tượng, từng nhóm khách hàng, hướng đến giá trị chung, các mối quan tâm của cộng đồng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

Thứ hai: Hệ thống chính sách

Cơ chế chính sách và hành lang pháp lý bao gồm: các văn bản pháp quy về đào tạo như Nghị quyết của Đảng; Chiến lược phát triển giáo dục của Chính phủ, các văn bản quy định của Bộ GD&ĐT và cơ quan chủ quản (nếu có); cơ chế quản lý của nhà nước đối với nhà trường. Hệ thống ĐBCL đào tạo được xây dựng dựa trên những yếu tố trên để đảm bảo tính thống nhất, tính chấp hành của một trường ĐH. Mặt khác, nếu cơ chế chính sách tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các trường ĐH thực thi hiệu quả, nhanh chóng. Nếu cơ chế chính sách không tốt, gặp phải sự chồng chéo hoặc khả năng thực thi thấp sẽ dẫn đến các khó khăn cho quá trình thực hiện của các CSGD.

Thứ ba: Xu hướng hội nhập quốc tế về giáo dục

Hiện nay, GDĐH Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với GDĐH quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ĐBCL đào tạo. Do đó, việc xây dựng hệ thống ĐBCL đào tạo đáp ứng yêu cầu quốc tế hóa giáo dục cũng không thể nằm ngoài xu thế đó.

Ở Việt Nam hiện nay đã và đang chú trọng, quan tâm đến các chuẩn chất

lượng đào tạo quốc tế như: Mạng lưới Đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA), Hội đồng cấp cao về đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES), Hội đồng Kiểm định các trường và chương trình đào tạo về kinh doanh ACBSP (Hoa Kỳ), v.v.

*Các yếu tố chủ quan

Một là: Nhận thức về ĐBCL đào tạo

Nhận thức của lãnh đạo nhà trường về ĐBCL đào tạo là yếu tố rất quan trọng, quyết định các cơ chế, chính sách để xây dựng, duy trì và cải tiến hệ thống ĐBCL đào tạo của nhà trường. Bên cạnh đó, để hoạt động ĐBCL đào tạo đem lại hiệu quả cao thì các thành viên trong nhà trường phải nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tính cấp thiết và tầm quan trọng của việc ĐBCL đào tạo. Từ đó, trong quá trình phối hợp để thực hiện các công việc có liên quan đến ĐBCL đào tạo mới thuận lợi, hiệu quả và nhanh chóng. Khi mọi thành viên trong nhà trường nhận thức đầy đủ và đúng đắn về các vấn đề trên, họ sẽ tự giác, tích cực tham gia các hoạt động ĐBCL đào tạo, từ đó tạo ra sự đồng thuận để triển khai hoạt động ĐBCL đào tạo trong nhà trường.

Hai là: Văn hóa chất lượng

Môi trường văn hóa chất lượng là môi trường mà ở đó sự duy trì, cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo đã trở thành mục tiêu chung của mọi thành viên trong nhà trường. Chính vì thế, môi trường văn hóa chất lượng ảnh hưởng lớn đến hoạt động ĐBCL đào tạo ở CSGD.

Hệ thống ĐBCL đào tạo trong trường đại học chịu tác động của văn hóa. Tác giả Ulf-Danial Ehlers và Dirk Schneckenberg đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa chất lượng và hệ thống ĐBCL đào tạo như hình dưới đây.


Hình 1 5 Các yếu tố tác động đến hệ thống ĐBCL Nguồn Theo Ehlers U D 1


Hình 1.5: Các yếu tố tác động đến hệ thống ĐBCL

Nguồn: Theo: Ehlers, U.-D., Schneckenberg, D. (2010), Changing Cultures in Higher Education: Moving Ahead to Future Learning, Springer, New York

Văn hóa chất lượng tạo nên sự kết dính, giúp các thành viên trong tổ chức đoàn kết với nhau, góp phần làm giảm mâu thuẫn, xây dựng khối đoàn kết. Văn hoá chất lượng giống như một “chất keo” để kết nối các thành viên trong nhà trường, cùng nhau làm việc để hướng tới mục tiêu đào tạo và nâng cao chất lượng của nhà trường. Từ đó, giảm rủi ro công việc hàng ngày (tránh mâu thuẫn về quyền lợi, kiểm soát các hoạt động trong nhà trường, tối đa hoá các hoạt động có hiệu quả).

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả Trần Văn Hùng trong Luận án tiến sĩ Giáo dục học có tựa đề “Xây dựng văn hóa chất lượng trong các trường đại học tư thục Việt Nam” đã chỉ ra một số yếu tố có ảnh hưởng đến hệ thống ĐBCL đào tạo trong các trường đại học nói chung và đại học tư thục nói riêng. Đây là mô hình các yếu tố được định hướng theo nhu cầu khách hàng và cho thấy thị trường lao động là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến công tác ĐBCL của trường đại học.


Hình 1 6 Ảnh hưởng của văn hóa khách hàng đến ĐBCL trong trường đại học 18 2


Hình 1.6. Ảnh hưởng của văn hóa khách hàng đến ĐBCL trong trường đại học [18]

Như vậy, khi xây dựng được môi trường văn hóa chất lượng có nghĩa là đã tạo lập và duy trì điều kiện cơ bản để cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Hoạt động của hệ thống ĐBCL đào tạo chỉ có tính bền vững khi diễn ra trong môi trường VHCL.

Ba là: Nguồn lực đầu tư cho hệ thống ĐBCL đào tạo

- ĐNGV và nhân viên

Chất lượng của đội ngũ phụ trách ĐBCL cũng rất quan trọng. CSGD có đội ngũ cán bộ ĐBCL có chất lượng là những người chuyên môn giỏi. Họ đảm nhận việc tư vấn các chính sách, tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản quản lý (quy định, hướng dẫn, kế hoạch, …), tổ chức thực hiện và kiểm tra các công việc về ĐBCL đào tạo một cách hiệu quả, giúp Ban Giám hiệu dễ dàng quản lý công việc ĐBCL.

Đội ngũ ĐBCL giỏi là đội ngũ có bằng cấp, chuyên môn đúng với vị trí việc làm. Nhân lực phụ trách mảng này thường tốt nghiệp các chuyên ngành: đo lường và đánh giá trong giáo dục, quản lý giáo dục, QLCL, … Họ là những người thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ thông qua các hoạt động như nhà trường cử đi học, tập huấn hoặc tự học.

- Năng lực tài chính và cơ sở vật chất

Tự chủ là xu hướng tất yếu của các trường đại học công lập. Chính phủ xác định, đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội và tự chủ đại học gồm có 4 trụ cột chính, trong đó, tự chủ tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung tự chủ về bộ máy, nhân sự và học thuật. Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề tài chính cho giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay đang có những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện trong thời gian tới.

Nguồn lực tài chính cho GDĐH ở Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn gồm: ngân sách nhà nước và thu hợp pháp của các cơ sở GDĐH. Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, nguồn tài chính của các trường ĐH và cách thức huy động của từng nguồn hiện nay là: (i) Nguồn ngân sách nhà nước cấp; (ii) Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; (iii) Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định; (iv) Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật; (v) Nguồn tài chính có từ những giao dịch tài chính của các trường ĐH theo quy định của pháp luật (vốn vay, vốn huy động, lãi tiền gửi ngân hàng…); (vi) Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật; (vii) Nguồn hỗ trợ tài chính cho sinh viên.

Trong bối cảnh nguồn tài chính cho GDĐH còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa. Các cơ sở GDĐH chưa chủ động về nguồn thu, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách nhà nước và thu từ học phí (đối với cơ sở GDĐH công lập) và nguồn thu từ học phí (đối với cơ sở GDĐH ngoài công lập); nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn hạn chế thì việc thiếu các nguồn lực đầu tư cho hệ thống ĐBCL bên trong là rất khó khăn.


Tiểu kết Chương 1

Hệ thống ĐBCL đào tạo là một mô hình QLCL đang được nhiều nước sử dụng để QLCL giáo dục nói chung và chất lượng GDĐH nói riêng. Hệ thống ĐBCL đào tạo bao gồm: 1) Hệ thống ĐBCL bên trong; 2) Hệ thống ĐBCL bên ngoài nhà trường. Luận văn này chỉ xem xét và giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hệ thống ĐBCL đào tạo bên trong trường đại học. Bản chất của Hệ thống ĐBCL đào tạo là hệ thống chính sách, mục tiêu, hành động, công cụ, nguồn lực, quy trình và thủ tục được các chủ thể quản lý giáo dục áp dụng theo những cách thức xác định nhằm duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo liên tục.

Mỗi hệ thống ĐBCL đào tạo có vai trò quan trọng trong đảm bảo, duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo của một trường đại học. Một hệ thống ĐBCL đào tạo được thiết kế hiệu quả sẽ góp phần nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh cho trường đại học. Hiện nay có nhiều mô hình ĐBCL đào tạo nhưng các trường đại học Việt Nam có 2 mô hình phổ biến là: Mô hình của AUN – QA và mô hình của Bộ GD&ĐT. Các thành tố cơ bản của một mô hình ĐBCL đào tạo gồm 3 thành tố chính là: Các yếu tố đầu vào, các yếu tố quá trình và các yếu tố đầu ra. Quá trình xây dựng, vận hành hệ thống ĐBCL đào tạo trong trường đại học chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan, đó là yếu tố KT – XH, chính sách pháp lý, xu thế hội nhập giáo dục, nhận thức của CSGD về ĐBCL đào tạo, văn hóa chất lượng và các nguồn lực đầu tư.

Để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo của CSGD đại học, vấn đề xây dựng hệ thống ĐBCL đào tạo có tính cấp thiết, các bước: xác lập chuẩn và quy trình, tổ chức thực hiện và đánh giá mức độ thực hiện cho các hoạt động tuyển sinh, xây dựng CTĐT, hoạt động dạy học, … cần được thực hiện nghiêm túc, chuẩn chỉnh và phù hợp với các quy định và bối cảnh trong và ngoài nhà trường.

Chương 2

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


2.1. Khái quát về Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

2.1.1. Lịch sử hình thành

Trường ĐHKT trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 290/QĐ-TTg ngày 6/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Trường đã trải qua nhiều giai đoạn chuyển đổi lịch sử và có khởi nguyên từ Khoa Kinh tế Chính trị thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ năm 1974; Tháng 9/1995: Khoa Kinh tế trực thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN; Tháng 7/1999: Khoa Kinh tế trực thuộc ĐHQGHN.

Trong suốt chặng đường hình thành và phát triển, Trường ĐHKT không ngừng nâng cao chất lượng về đào tạo, nghiên cứu khoa học và các dịch vụ khác nhằm hướng tới mục tiêu trở thành một trường đại học định hướng nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh. Trường ĐHKT đã được xã hội biết đến như là một trường đại học trẻ, năng động, có tầm nhìn và quyết tâm phát triển theo hướng chất lượng và đẳng cấp quốc tế. Vị thế và uy tín của Nhà trường đang dần được củng cố và nâng cao.

Chiến lược và sứ mệnh thiêng liêng của Nhà trường luôn gắn với 4 giá trị cốt lõi: Khuyến khích sáng tạo, nuôi dưỡng say mê; Tôn trọng sự khác biệt, thúc đẩy hợp tác; Coi trọng chất lượng, hiệu quả; Đảm bảo hài hòa, phát triển bền vững. Đây là nền tảng vững chắc để các thế hệ giảng viên tài năng, tâm huyết và trách nhiệm tiếp tục vun đắp tạo nên những thành công mới, nâng cao các chỉ số xếp hạng, tăng trưởng chất lượng đào tạo và nghiên cứu, tạo dựng một cơ sở học thuật tiện ích, kết nối tối ưu hiệu quả các nguồn lực và giải pháp công nghệ để chuyên nghiệp hóa công tác quản trị đại học1.


1 Xem thêm tại: http://ueb.edu.vn/Sub/14/categoryparent/34/Lichsu.htmtruy cập ngày 08/02/2020.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/06/2023