3.2.1.5. Đánh giá hiệu quả công tác lập kế hoạch thanh tra
Thực tế những năm vừa qua, Cục Thuế tiến hành thanh tra nhưng không chú trọng đến kết quả đã phân tích lựa chọn doanh nghiệp đưa vào kế hoạch thanh tra (do bộ phận lập kế hoạch thanh tra đánh giá rủi ro như thế nào mà lựa chọn đưa vào kế hoạch), cán bộ được giao nhiệm vụ thanh tra phân tích hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính, quyết toán thuế, phân tích các tiêu chí lại từ đầu, từ đó tạo sự lãng phí, không phát huy hết vai trò công tác lập kế hoạch thanh tra.
Vì vậy, hàng quý, 06 tháng và cả năm Cục Thuế nên có đánh giá hiệu quả công tác lập kế hoạch thông qua tổng hợp kết quả các cuộc thanh tra để đánh giá chất lượng công tác lập kế hoạch, những rủi ro qua lập kế hoạch thanh tra được các đoàn thanh tra thực hiện có hiệu quả như thế nào, lĩnh vực, ngành nghề, nội dung đạt kết quả tốt để rút kinh nghiệm nhằm thực hiện xây dựng kế hoạch năm sau. Đồng thời chỉ rõ những nội dung qua thanh tra phát hiện vi phạm của doanh nghiệp nhưng công tác phân tích đánh giá lập kế hoạch thanh tra không chỉ ra được, qua đó đánh giá, rút kinh nghiệm nâng cao vai trò công tác lập kế hoạch trong công tác thanh tra thuế.
3.2.1.6. Đổi mới toàn diện hoạt động thanh tra thuế theo hướng thống nhất, hiện đại, chính quy, chuyên nghiệp và hiệu quả
Nếu coi sự tuân thủ về thuế của doanh nghiệp (DN) là hành vi chấp hành nghĩa vụ thuế theo đúng mục đích của luật pháp một cách đầy đủ, tự nguyện và đúng thời gian, thì hành vi tuân thủ thuế của DN có thể được nhìn nhận một cách toàn diện theo mô hình các cấp độ tuân thủ thuế.
Các cấp độ tuân thủ của DN thể hiện mức độ chấp nhận hoặc từ chối nghĩa vụ thuế hay thái độ tuân thủ nghĩa vụ thuế của DN. Đây chính là các cấp độ bày tỏ mối quan hệ và thái độ của DN với cơ quan thuế, nghĩa là mức độ chấp nhận hay từ chối các quy định của luật thuế, các kế hoạch và công cụ quản lý thuế. Tuân thủ nghĩa vụ thuế của DN hiện nay được thể hiện dưới 4 mức độ:
(i) Mức độ cam kết: Ở mức độ này, đối tượng sẵn sàng tuân thủ, DN cảm thấy “thoải mái” với hoạt động quản lý thuế, hợp tác với cơ quan thuế theo các kế hoạch quản lý thuế và tuân thủ một cách tích cực, thậm chí có thể thay mặt cơ quan thuế khuyến khích đối tượng khác tuân thủ;
(ii) Mức độ chấp nhận: DN chấp nhận những yêu cầu quản lý thuế và tin tưởng vào cơ quan thuế. Ở mức độ này, DN cố gắng tuân thủ nhưng đôi khi không thành công;
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Khảo Sát Về Tiêu Chí Thời Gian Thanh Tra
- Số Doanh Nghiệp Vi Phạm Và Các Loại Thuế Khác (Thu Nhập Cá Nhân, Thuế Tài Nguyên, Phí Bảo Vệ Môi Trường) Truy Thu
- Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Thanh Tra Thuế Đối Với Doanh Nghiệp Trong Cơ Chế Tự Khai, Tự Nộp Tại Cục Thuế Tỉnh An Giang
- Xây Dựng Nguồn Thông Tin Phục Vụ Công Tác Thanh Tra Thuế
- Hoàn thiện công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp trong cơ chế tự khai, tự nộp tại Cục Thuế tỉnh An Giang - 15
- Hoàn thiện công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp trong cơ chế tự khai, tự nộp tại Cục Thuế tỉnh An Giang - 16
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
(iii) Mức độ miễn cưỡng: Đây là cách tiếp cận chống đối, DN có xu hướng không muốn tuân thủ nhưng nếu cơ quan thuế quan tâm, sát sao thì DN sẽ tuân thủ mặc dù rất miễn cưỡng;
(iv) Mức độ từ chối: DN quyết định không tuân thủ, hoàn toàn tách ra khỏi sự quản lý của cơ quan thuế.
Thực tế cho thấy, Cục thuế tỉnh An Giang cần phải phân định, phân chia DN thành các nhóm theo các cấp độ tuân thủ, khi đó mới có biện pháp quản lý, thanh tra, kiểm tra thuế phù hợp và hiệu quả. Việc phân định, phân chia DN thành các nhóm theo các cấp độ tuân thủ sẽ giúp cơ quan thuế tối ưu hóa chi phí quản lý thuế nói chung, chi phí thanh tra, kiểm tra nói riêng cũng như phân bố các nguồn lực một cách hiệu quả, tránh lãng phí.
Nguồn: Ý kiến tác giả có tham khảo lãnh đạo
Hình 3.1: Mô hình tuân thủ của doanh nghiệp
Cụ thể: Đối với những DN vui lòng hợp tác, nguyên tắc là cơ quan thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự tuân thủ và lựa chọn chiến lược tự quản lý (tự điều chỉnh) để khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện thông qua các chương trình cụ thể như giáo dục và cung cấp các dịch vụ, điều kiện thuận tiện nhất, tốt nhất để DN
thực hiện nghĩa vụ thuế của mình; Nếu đối tượng mắc sai sót nhưng cam kết sửa sai, họ cần được sự hỗ trợ của cơ quan thuế. Với cấp độ này, cơ quan thuế sẽ theo sát để giúp đối tượng tuân thủ nghĩa vụ thuế. Đối tượng có trách nhiệm sửa chữa lỗi với sự trợ giúp của cơ quan thuế nhưng cơ quan thuế cũng có cơ chế để đảm bảo DN sẽ thực hiện việc sửa sai và có được những thông tin phản hồi để đảm bảo sự tuân thủ của DN thực sự tốt hơn.
Ở 2 cấp độ này, Cục Thuế sẽ thực hiện việc quản lý cưỡng chế thông qua các mệnh lệnh và hoạt động kiểm soát gắt gao. Cấp độ “mềm mỏng” của quản lý mệnh lệnh đó là, cơ quan thuế sẽ ngăn chặn trốn thuế bằng hoạt động thanh tra và xem xét sử dụng hình phạt ở mức độ vừa phải để cải thiện sự tuân thủ của DN. Còn trong trường hợp DN quyết tâm không tuân thủ pháp luật thuế, trốn thuế bằng mọi giá, thì cơ quan thuế sẽ buộc phải sử dụng tới quyền năng luật pháp cũng như áp dụng những mức phạt, hình phạt cao nhất, qua đó răn đe các trường hợp khác.
Tuy nhiên, cơ quan thuế cũng có thể lựa chọn chiến lược tự quản lý bởi 3 lý
do:
- Thứ nhất, chiến lược tự quản lý sẽ giảm thiểu chi phí quản lý hành chính
cho cơ quan thuế, đồng thời khiến cho chi phí tuân thủ thuế của DN cũng ít tốn kém
hơn.
- Thứ hai, chiến lược tự quản lý giảm gánh nặng quản lý thuế tới mức thấp nhất, nhấn mạnh đến sự hợp tác và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bền vững giữa cơ quan thuế và DN.
- Thứ ba, nguyên tắc giảm cưỡng chế từ trên xuống dưới, đẩy mạnh việc giao một số quyền quản lý thuế từ cơ quan thuế đến DN và tăng tính tự chủ của DN.
Cơ quan thuế chỉ nên di chuyển lên cấp độ cao hơn ở tháp quản lý, nếu DN lạm dụng quyền tự quản lý nói trên. Ở cấp độ “chấp nhận” của động cơ tuân thủ, cơ quan quản lý thuế cần hỗ trợ, tuyên truyền thêm cho DN và chưa thực sự cần đến các biện pháp mạnh tay. Ngược lại, ở cấp độ “miễn cưỡng” hoặc cấp độ “từ chối”, mối quan hệ giữa DN và cơ quan thuế trở nên “thù địch”, cơ quan thuế nên tiếp cận với các phương pháp cưỡng chế mạnh mẽ hơn.
Áp dụng mô hình tuân thủ khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế, cơ quan
thuế nên chuyển hoạt động thanh tra, kiểm tra chủ yếu tiến hành tại cơ sở kinh
doanh sang thanh tra, kiểm tra chủ yếu tiến hành tại cơ quan thuế. Sự thay đổi này, sẽ tăng tính hiệu quả của hoạt động thanh kiểm tra, mở rộng số lượng, trường hợp DN được cơ quan thuế giám sát việc tuân thủ nghĩa vụ thuế; Đồng thời, giúp cơ quan thuế có những sự chuẩn bị và có nhiều thông tin hơn cũng như xác định chính xác phạm vi nội dung khi tiến hành thanh tra kiểm tra tại trụ sở của DN.
Nguồn: Ý kiến tác giả có tham khảo lãnh đạo
Hình 3.2: Lựa chọn doanh nghiệp tiến hành thanh tra thuế
Nhìn vào hình 3.2 chúng ta thấy, cơ quan thuế sẽ chuyển đổi từ việc thanh tra, kiểm tra theo diện rộng, nặng tính cảm tính sang thanh tra, kiểm tra theo hệ thống tiêu thức lựa chọn khách quan, khoa học, đi vào chiều sâu theo mức độ vi phạm. Theo mô hình này, việc lựa chọn đối tượng thanh, kiểm tra theo xu hướng ngẫu nhiên, dàn trải và không phụ thuộc vào việc phân tích mức độ vi phạm pháp luật thuế của DN, sẽ được thay thế bởi một cơ chế lựa chọn đối tượng bị thanh, kiểm tra tập trung vào nhóm DN vi phạm pháp luật thuế.
Hình 3.3 là mô hình chuyển từ thanh tra kiểm tra toàn diện sang thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề và nội dung vi phạm. Với mô hình chuyển đổi này, hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế sẽ được nâng lên, đồng thời cơ quan thuế sẽ không bị rơi vào tình trạng lãng phí các nguồn lực rất hạn chế của mình cũng như không gây phiền hà, cản trở công việc kinh doanh của DN. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả mô hình tuân thủ thuế cũng như các mô hình trên, cơ quan thu ế cần đánh giá tương
đối chính xác mức độ tuân thủ pháp luật thuế của DN. Nếu coi việc xảy ra hành vi gian lận thuế là một mối rủi ro thì cơ quan thuế cần xác định được khả năng xảy rủi ro đối với từng DN để lựa chọn chính xác DN cần tiến hành thanh, kiểm tra. Hơn nữa, sau khi lựa chọn chính xác DN cần thanh, kiểm tra, cần xác định chính xác đâu là nội dung vấn đề cần tập trung thanh, kiểm tra; Nội dung nào có thể tạm thời không quan tâm, để phân phối nguồn lực theo hướng tối đa lợi ích.
Nguồn: Ý kiến tác giả có tham khảo lãnh đạo
Hình 3.3: Lựa chọn doanh nghiệp tiến hành thanh tra thuế
Mô hình tuân thủ thuế đã được áp dụng thành công để quản lý DN cũng như công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở một số quốc gia như Úc, Newzealand. Để áp dụng mô hình này một cách hiệu lực, Cục thuế Tỉnh An Giang phải đảm bảo các điều kiện như: Cần tìm hiểu về tình trạng động cơ tuân thủ thuế và các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ tuân thủ của DN; Cơ quan thuế cần chắc chắn rằng, tất cả các DN hiểu đầy đủ về nghĩa vụ thuế và họ phải được đưa đến các cơ hội tuân thủ; Thay vì áp dụng các chiến lược cưỡng chế thuế, cơ quan thuế phải bắt đầu cơ bản từ việc cung cấp dịch vụ, điều kiện tốt hơn cho DN, tuyên truyền và hỗ trợ nhiều hơn cho DN. Đặc biệt, để tăng cường sự tuân thủ tự nguyện, cơ quan thuế cũng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các chuyên gia, chính khách và của cả cộng đồng. Bản thân cơ quan thuế và từng cán bộ thuế cần phải thực sự thay đổi theo hướng hành động minh bạch, công bằng.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra theo cơ chế quản lý rủi ro
cũng cần được chú trọng. Cục thuế tỉnh An Giang cần chú ý đến việc tổ chức, phân bổ nguồn nhân lực và quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế. Do tầm quan trọng của công tác thanh tra, kiểm tra thuế và các kỹ năng chuyên môn kèm theo, đa số cơ quan thuế các nước đều lập một hoặc nhiều phòng chuyên môn chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đối với DN lớn, DN khác.
Để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, Cục thuế tỉnh An Giang cần chú ý:
Một là, nghiên cứu, áp dụng toàn diện mô hình quản lý tuân thủ trong quản lý thuế, là cơ sở để triển khai áp dụng có hiệu quả phương pháp thanh tra theo cơ chế quản lý rủi ro.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung về DN, tích hợp các ứng dụng tin học; đào tạo, nâng cao kỹ năng quản lý và phân tích thông tin cho cán bộ thanh tra thông qua việc mở các lớp phân tích tài chính DN mời các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong phân tích, đánh giá rủi ro về thuế giảng dạy.
Ba là, hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá, phân tích rủi ro phục vụ cho việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra; nghiên cứu và hoàn thiện phương pháp lựa chọn đối tượng thanh tra ngẫu nhiên.
Bốn là, xây dựng, hoàn thiện và trang bị các công cụ hỗ trợ cho cán bộ thanh tra thuế như quy trình và sổ tay nghiệp vụ thanh tra; Các công cụ điện tử cho phép truy cập cơ sở dữ liệu và kiểm tra các hồ sơ khai thuế của DN trong quá trình thanh tra tại trụ sở của DN; Các công cụ sử dụng trực tiếp trên máy tính xách tay đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ của cán bộ thanh tra …
Năm là, nghiên cứu, kiện toàn bộ máy thanh tra thuế, theo đó bên cạnh việc xây dựng, kiện toàn mô hình quản lý thuế theo chức năng đảm bảo chuyên sâu, chuyên nghiệp, có thể đề xuất thành lập thêm một bộ phận chuyên nghiệp đa chức năng để quản lý, thanh tra các DN lớn; Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm thu thập, quản lý thông tin về DN, xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá rủi ro và đánh giá rủi ro tập trung về DN.
Sáu là, tăng cường năng lực cho đội ngũ thanh tra thông qua việc nghiên
cứu, xây dựng, chuẩn hóa mô hình tiêu chuẩn về năng lực cán bộ thanh tra. Mô hình tiêu chuẩn về năng lực cán bộ sẽ là cơ sở để xây dựng, triển khai kế hoạch tuyển
dụng, đào tạo, đánh giá và phát triển nguồn lực.
Bảy là, nghiên cứu, xây dựng và áp dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra thuế theo những tiêu chí: Mức độ hoàn thành kế hoạch thanh tra được Tổng cục Thuế phê duyệt; Số tiền xử lý vi phạm qua thanh tra bình quân 1 cuộc; Mức độ chấp hành theo Quyết định xử lý sau thanh tra; Mức độ thực hiện đúng theo quy trình về thời gian thanh tra; Quyết định xử lý sau thanh tra bị khiếu nại…
3.2.2. Các giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra thuế tại doanh nghiệp
Qua phân tích, đánh giá những mặt hạn chế, yếu kém, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thanh tra thuế tại doanh nghiệp, cụ thể:
3.2.2.1. Xây dựng chính sách thuế
Nghiên cứu chính sách thuế hiện hành cũng như qua kh ảo sát thực tế nhận thấy chính sách thuế hiện nay chưa hoàn chỉnh, không lường trước được những tình huống phát sinh trong trong thực tiễn luôn biến động; chính sách thuế thường xuyên thay đổi, có thể hiểu và áp dụng theo nhiều cách khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho NNT trong quá trình thực hiện cũng như gây lúng túng cho bộ phận làm công tác thanh tra. Để phục vụ tốt cho công tác thanh tra thuế, cần phải hoàn thiện chính sách thuế:
- Xây dựng chính sách thuế mới hoàn chỉnh, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các quy định pháp luật khác có liên quan. Chính sách thuế phải dự kiến được những tình huống phát sinh trong thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế, hạn chế tối đa những kẽ hở trong chính sách thuế rất dễ bị NNT lợi dụng lách thuế, gian lận, trốn thuế nhất là trong những lĩnh vực chống chuyển giá, thương mại điện tử, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để kê khai, khấu trừ, hoàn thuế GTGT, lợi dụng chính sách thông thoáng trong việc đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp ma nhằm mua bán hóa đơn chiếm đoạt tiền hoàn thuế của NSNN...
Xây dựng chính sách thuế phải chi tiết, bao hàm tất cả những vấn đề có liên quan, khắc phục tình trạng Luật thuế có hiệu lực thi hành nhưng phải chờ Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện, nhiều vấn đề không đề cập chi tiết, rõ ràng cần phải có văn bản hướng dẫn… để NNT khi đọc văn bản quy phạm pháp luật thuế
không cần phải nghiên cứu thêm văn bản hướng dẫn.
Thực tế hiện nay văn bản pháp luật thuế thường thay đổi, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế thường xuyên ban hành những văn bản hướng dẫn để giải thích, làm rõ những vướng mắc trong thực tiễn. Trong khi đó không phải doanh nghiệp nào cũng thường xuyên đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu, cập nhật đầy đủ những văn bản hướng dẫn, vì vậy nếu không có sự tổng hợp, thống kê đầy đủ sẽ rất khó có khả năng thực hiện đúng. Mặt khác, việc áp dụng các văn bản hướng dẫn (không phải là văn bản quy phạm pháp luật) cũng không đảm bảo cơ sở pháp lý khi kết luận những vấn đề phát sinh trong thanh tra, ngoài ra đó cũng là rủi ro lớn của người làm công tác thanh tra khi các cơ quan pháp luật vào thanh tra, kiểm tra.
Văn bản pháp luật thuế phải rõ ràng, từ ngữ sử dụng không thể hiểu những cách khác nhau, Thông tư hướng dẫn thực hiện phải có ví dụ cụ thể hóa từng vấn đề trong thực tiễn để NNT dễ hiểu, dễ áp dụng.
- Cơ quan Thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền chính sách thuế cho NNT với nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau như thông qua các buổi đối thoại doanh nghiệp, thông tin chính sách thuế trên báo đài, tờ rơi, trang thông tin điện tử ngành thuế, tiếp nhận bằng điện thoại của bộ phận tuyên truyền hỗ trợ để trả lời kịp thời những vướng mắc phát sinh, qua đó giúp NNT có thể áp dụng và vận dụng vào thực tế doanh nghiệp mình.
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức căn bản về thuế cho giám đốc doanh nghiệp, cấp chứng chỉ về việc kinh qua lớp bồi dưỡng kiến thức căn bản về thuế cho chủ doanh nghiệp để hạn chế tối đa trường hợp chủ doanh nghiệp ra kinh doanh nhưng không có những kiến thức căn bản về thuế. Hiện nay hầu như công tác kế toán, thuế chủ doanh nghiệp đều giao khoán cho kế toán thực hiện; việc giao dịch và trao đổi với CQT những vướng mắc phát sinh cũng được kế toán thực hiện, nhưng khi bị xử lý phạt vi phạm hành chính thì giải trình do không nắm chế độ chính sách thuế.
- Sớm ban hành sổ tay nghiệp vụ phục vụ công tác thanh tra để cán bộ làm công tác thanh tra có thể tiếp cận nghiên cứu nâng cao kỹ năng thanh tra và nhận diện những hành vi, thủ đoạn gian lận, trốn thuế; phương pháp phát hiện những hành vi vi phạm theo đặc điểm từng ngành nghề, từng loại hình doanh nghiệp để thường xuyên trao dồi tích lũy kinh nghiệm cho công tác thanh tra.