Các Nhân Tố Tác Động Đến Công Tác Thẩm Định Cho Vay Bổ Sung Vốn Lưu Động


Tỷ số khả năng trả lãi chỉ cho biết khả năng trả phần lãi của khoản đi vay, chứ không cho biết khả năng trả cả phần gốc lẫn lãi ra sao. Tỷ số trên nếu lớn hơn 1 thì doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng trả lãi vay. Nếu nhỏ hơn 1 thì chứng tỏ hoặc doanh nghiệp đã vay quá nhiều so với khả năng của mình, hoặc doanh nghiệp kinh doanh kém đến mức lợi nhuận thu được không đủ trả lãi vay, khả năng sinh lợi thấp.

Lợi nhuận trước thuế và lãi vay

Khả năng hoàn trả nợ =

Nợ gốc + Chi phí lãi vay

Tỷ số này cho biết mỗi đồng nợ gốc và lãi có bao nhiêu đồng có thể sử dụng để trả nợ, doanh nghiệp có khả năng trả nợ gốc và lãi từ lợi nhuận trước thuế hay không. Nếu tỷ số này lớn hơn 1, khả năng trả nợ của doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp hoàn toàn có thể trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Nếu nhỏ hơn 1, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp không được tốt.

(1.6) Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng

Chấm điểm tín dụng là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với một ngân hàng như việc trả lãi và gốc vay khi đến hạn hoặc các điều kiện tín dụng khác nhằm đánh giá, xác định rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng đối tượng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Từ đó, ngân hàng có những thông tin quan trọng để đánh giá mức độ rủi ro của từng khách hàng. Đó cũng là cơ sở để đưa ra các quyết định cho vay như hạn mức cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay.

Mục đích của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng là đưa ra nhận xét đánh giá về tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán hiện hành của khách hàng nhằm xác định khả năng thu hồi vốn của ngân hàng, ước lượng rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời, giúp ngân hàng đưa ra quyết định phù hợp, giảm thiểu rủi ro.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Với mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, ngân hàng có thể chủ động trong quản lý khách hàng, giám sát và đánh giá khách hàng khi khoản vay còn trong thời hạn cho vay. Xếp hạng khách hàng cho phép ngân hàng lường trước được dấu hiệu cho thấy khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không để có biện pháp xử lý kịp thời.

Khi xây dựng được mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, ngân hàng có thể nâng cao chất lượng thẩm định, rút ngắn thời gian thẩm định. Ngoài ra, nó còn giúp ngân hàng chuẩn hóa việc thu thập và quản lý thông tin khách hàng.

Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 6


31

(2) Thẩm định phương án SXKD

Mục đích của việc thẩm định này là đánh giá khả năng thực hiện phương án SXKD của khách hàng, cách thức thực hiện và tính hiệu quả của phương án. Thẩm định phương án SXKD của khách hàng là việc quan trọng đối với công tác cho vay của ngân hàng. Nếu phương án được thực thi với hiệu quả cao, khách hàng sẽ có nguồn thu và sẽ có nguồn trả nợ cho ngân hàng.

Công việc cụ thể khi thẩm định phương án SXKD của khách hàng như sau:

Xem xét đối tượng cho vay: Theo quy định của pháp luật, ngân hàng được phép cho vay tất cả các đối tượng, các giao dịch mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều đối tượng cho vay không tạo ra hiệu quả trực tiếp (ví dụ như chi phí hoa hồng, môi giới, lệ phí hải quan, tiền phạt...) hoặc không nằm trong chi phí thực mà khách hàng phải bỏ ra để thực hiện phương án (như khấu hao tài sản cố định, thuế thu nhập...) hoặc không nằm trong định hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng như cho vay sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản... Do vậy khi thẩm định cho vay, CBTD phải xem xét đối tượng cho vay đó có tạo ra hiệu quả trực tiếp không, có phải là chi phí thực mà doanh nghiệp phải bỏ ra khi thực hiện phương án kinh doanh hay không và có nằm trong lĩnh vực mà ngân hàng cho vay không.

Các đối tượng sau đây các đơn vị được phép cho vay:

- Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị để thực hiện các dự án, phương án SXKD, dịch vụ, đời sống và đầu tư phát triển, kể cả các loại thuế phải nộp cho các đối tượng trên kèm theo như thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có).

- Chi phí nhân công, nhiên liệu, năng lượng phục vụ quá trình SXKD.

- Cho vay nộp thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng của các lô hàng nhập khẩu.

Các đối tượng khác không bị pháp luật cấm nhưng không thuộc các đối tượng trên khi cho vay các đơn vị phải báo cáo Tổng Giám đốc phê duyệt trước khi quyết định cho vay.

Xem xét các yếu tố đầu vào:

Đối với các phương án kinh doanh thương mại: Các yếu tố đầu vào được thể hiện qua các hợp đồng, báo giá, biên bản xét thầu. Trên cơ sở hồ sơ do khách hàng cung cấp kết hợp với tìm hiểu trên thị trường, CBTD phải đánh giá số lượng, chủng loại, đơn giá, chất lượng sản phẩm hàng hoá, điều khoản về thời hạn giao hàng và phương thức thanh toán của hợp đồng nhằm phát hiện những điều kiện bất lợi trong hợp đồng để tư vấn cho khách phương án tối ưu, hoặc những trường hợp khách hàng tăng, giảm chi phí một cách giả tạo.

Đối với các phương án sản xuất hoặc thi công xây dựng: Xem xét uy tín của người cung cấp, số lượng, chất lượng của nguyên liệu có phù hợp với yêu cầu của sản

32


phẩm hay không, định mức hao phí nguyên vật liệu, phương thức thanh toán, thời hạn giao hàng (điều này đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp thực hiện sản xuất theo hình thức gia công)...

Xem xét các yếu tố đầu ra:

Đối với các phương án kinh doanh thương mại: Xem xét khả năng tiêu thụ sản phẩm trên các phương diện hàng hoá, chất lượng, giá cả so với mặt bằng thị trường tại thời điểm đó. Những trường hợp khách hàng đã có hợp đồng đầu ra thì cần xem xét kỹ nội dung hợp đồng và hình thức của hợp đồng đặc biệt là các điều khoản về hàng hoá, chất lượng, hiệu lực hợp đồng, thời hạn giao hàng, điều khoản thanh toán. Những trường hợp chưa có hợp đồng đầu ra, cần phân tích tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trên thị trường, tình hình tồn kho, phương thức bán hàng và khả năng bán hàng của khách hàng để đánh giá khả năng tiêu thụ và phải đặc biệt lưu ý phân tích kỹ những trường hợp khách hàng mới kinh doanh mặt hàng đó, chưa có kinh nghiệm. Ngoài ra, nếu bán hàng trả chậm hoặc thanh toán sau, CBTD còn cần phân tích độ uy tín về thanh toán của khách hàng mua.

Đối với các phương án sản xuất hoặc thi công xây dựng: Phải đánh giá khả năng tổ chức sản xuất và tiêu thụ, hoặc thi công của khách hàng, bao gồm xem xét công suất, năng lực sản xuất, thi công của doanh nghiệp. Kế hoạch và tiến độ sản xuất, thi công. Các chính sách, phương thức bán hàng tiêu thụ sản phẩm. Sản lượng, doanh số bán hàng của loại sản phẩm đó hàng tháng cũng như trong thời kỳ trước đó và dự kiến tình hình tiêu thụ trong thời gian thực hiện phương án kinh doanh.

Xem xét về sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm: Khi tiến hành xem xét về sản phẩm của khách hàng, ngân hàng cần phải biết khách hàng kinh doanh sản phẩm gì, nhu cầu của xã hội về sản phẩm đó trong thời điểm hiện tại và tương lai như thế nào, chất lượng sản phẩm ra sao, khả năng sản xuất sản phẩm trong giai đoạn tăng trưởng, phát triển và bão hòa như thế nào… Ngoài ra, ngân hàng cần xem xét đến ưu thế của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh, sự khác biệt trong sản phẩm, sự chấp nhận của thị trường đối với sản phẩm. Từ đó, CBTD sẽ phân tích khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, xem xét thị phần của sản phẩn trong thời gian có mặt trên thị trường.

Xem xét về thiết bị, công nghệ: Đối với doanh nghiệp sản xuất, phải xem xét đến công nghệ sản xuất mà doanh nghiệp đang sử dụng có phù hợp không, có bị lỗi thời hoặc quá cũ kĩ không. Máy móc sử dụng có đáp ứng được yêu cầu sản xuất không, có đổi mới về công nghệ không. Máy móc cũ kỹ, lỗi thời làm giảm chất lượng của sản phẩm, ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm, khiến uy tín của doanh nghiệp bị giảm, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng vì thế mà bị suy giảm.


33

(3) Thẩm định bảo đảm tiền vay

Trên nguyên tắc không phải bất cứ một nghiệp vụ tín dụng nào cũng phải có bảo đảm, trong các nghiệp vụ đơn giản, ít khi ngân hàng đòi hỏi phải có đảm bảo. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chứa đựng rủi ro, có thể kéo theo những rủi ro của ngân hàng. Bởi vậy, trên thực tế, đảm bảo thường được coi là điều kiện quan trọng trong mọi nghiệp vụ cho vay của NHTM.

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Các hình thức bảo đảm có thể là: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản. Khi khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng, khách hàng sẽ phải lập hồ sơ bảo đảm tiền vay. Mục đích của việc thẩm định TSBĐ là đánh giá chính xác và trung thực khả năng thu hồi nợ từ TSBĐ trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Nội dung thẩm định TSBĐ của khách hàng bao gồm:

Thẩm định giá trị pháp lý của tài sản bảo đảm: Đối với những giấy tờ liên quan đến việc nhận dạng tài sản, có đăng ký quyền sở hữu, ngân hàng chỉ cần xem xét tính chân thực của các tài sản đó. CBTD phải chứng thực rằng tài sản đó có tồn tại, đang được sử dụng đúng mục đích. Giấy tờ liên quan đến TSBĐ đều được yêu cầu công chứng tại địa bàn mà khách hàng đang hoạt động, chứng minh sự tồn tại của tài sản, quyền sở hữu đối với tài sản.

Đối với TSBĐ không có cơ quan có thẩm quyền chứng thực mà chỉ là sự xác nhận giữa khách hàng và đối tác, ngân hàng cần dựa vào các hóa đơn mua bán hàng hóa, chứng nhận lưu kho… để xác nhận tính trung thực của tài sản.

Thẩm định giá trị thị trường của tài sản bảo đảm: Dựa vào mô hình chiết khấu dòng tiền về hiện tại để ngân hàng tính toán giá trị thị trường hiện tại của tài sản. Hoặc có thể sử dụng dịch vụ định giá tài sản của các doanh nghiệp chuyên thực hiện nghiệp vụ này. Thẩm định giá trị thị trường của TSBĐ làm căn cứ để xác định mức cho vay đối với khách hàng.

Thẩm định khả năng tiêu thụ tài sản bảo đảm: Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng phải sử dụng đến TSBĐ của khách hàng làm nguồn thu thứ hai. TSBĐ được phát mại để ngân hàng thu hồi được tiền về. Ngân hàng cần phải thẩm định khả năng tiêu thụ của tài sản trên thị trường để đảm bảo khả năng thanh khoản của tài sản, khả năng ngân hàng có thể dễ dàng bán tài sản bảo đảm trên thị trường để thu hồi nợ.

Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản: Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản là hình thức mà ngân hàng cho khách hàng vay vốn không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng chỉ dựa vào uy tín của khách hàng để xem xét cho vay. Uy tín của khách hàng có thể kiểm chứng thông qua lịch sử

34


giao dịch của khách hàng với ngân hàng, thông qua các đối tác của khách hàng, quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác.

(4) Xác định số tiền cho vay và thời gian cho vay

Số tiền cho vay: Là số tiền ngân hàng cho khách hàng vay hoặc cam kết cho khách hàng vay theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng.

Số tiền cho vay được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, giá trị TSBĐ, khả năng hoàn trả của khách hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng, giới hạn cho vay của pháp luật và của ngân hàng. Số tiền cho vay được tính theo công thức sau:

Nhu cầu

vay vốn =

Nhu cầu vốn

lưu động -

Vốn chủ sở hữu tham gia

Vốn huy

- động khác


Trong đó:

Nhu cầu vốn lưu động: Bao gồm chi phí sản xuất thực tế phải chi ra bằng tiền mặt trong kỳ kế hoạch như tiền lương, chi phí quản lý, chi phí bán hàng…

Vốn chủ sở hữu tham gia: Được tính theo tỷ lệ phần trăm tối thiểu theo một đơn vị tiêu chuẩn mà doanh nghiệp lựa chọn để tính toán (tổng tài sản lưu động, chênh lệch giữa tài sản lưu động và khoản phải trả…).

Vốn huy động khác: Gồm giá trị mua chịu của nhà cung cấp, tiền hàng ứng trước của khách hàng, các khoản phải trả cho người lao động, các nghĩa vụ phải thực hiện với Nhà nước.

Thời gian cho vay: Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận khoản tiền vay đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ vay bao gồm gốc và lãi vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng cho vay giữa NHTM và khách hàng.

Thời hạn cho vay được tính toán dựa trên chu kỳ ngân quỹ, vòng quay vốn lưu động và các tài sản lưu động thuộc đối tượng cho vay, báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự tính. Công thức tính thời gian cho vay như sau:

Thời gian cho vay = Thời gian luân chuyển vốn lưu động + Thời gian bán

chịu


Trong đó:

Thời gian bán chịu: phụ thuộc vào chính sách bán hàng của doanh nghiệp

360

Thời gian luân chuyển vốn lưu động =

Vòng quay vốn lưu động


35

(5) Ước lượng và kiểm soát rủi ro

Cho vay BSVLĐ là hoạt động mang lại tỷ trọng doanh thu cao nhưng cũng đem lại rủi ro cao cho ngân hàng.

Những rủi ro có thể đến từ phía khách hàng: sự tăng lên đột ngột của chi phí SXKD, giá của sản phẩm bị giảm, thị trường không đón nhận sản phẩm doanh nghiệp, sự cố ý trong việc sử dụng không đúng mục đích số vốn vay của ngân hàng. Cũng có thể những rủi ro lại đến từ phía ngân hàng như công tác thẩm định không chặt chẽ, quy trình lỏng lẻo, sự chủ quan từ CBTD trong quá trình tiếp nhận hồ sơ đến khi giải ngân và kiểm soát sau khi giải ngân. Những yếu tố khách quan như chính sách của Nhà nước, biến động kinh tế thế giới gây ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước cũng có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro cho ngân hàng.

Có những rủi ro có thể ước lượng được, ngân hàng có thể tính toán được, nhưng những rủi ro lại chủ yếu là do khách quan, ngân hàng không lường trước được. Ngân hàng chỉ có thể giảm thiểu rủi ro chứ không thể xóa bỏ và ngăn chặn rủi ro. Để giảm thiểu chúng, ngân hàng cần nắm bắt tốt các chính sách kinh tế, môi trường vĩ mô. Đối với các CBTD, cần nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, nhanh nhạy với những phản ứng của thị trường. Về phía quan hệ với khách hàng, cần yêu cầu khách hàng nộp đầy đủ và khai chân thực những số liệu trong hồ sơ, yêu cầu có TSBĐ khi cảm thấy có dấu hiệu không an toàn từ phía khách hàng.

1.3.9 Các nhân tố tác động đến công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động

1.3.9.1 Nhân tố thuộc về phía ngân hàng

Quy định của ngân hàng: Những quy định khắt khe và ngặt nghèo của ngân hàng trong quy trình thẩm định có thể gây nên áp lực cho CBTD, khiến cho công tác thẩm định mang tính áp đặt gò bó, tạo sức ép công việc, không mang lại hiệu quả công việc cao. Quy định về thời gian thẩm định một hồ sơ khiến CBTD bị áp lực về thời gian mà không đi sâu tìm hiểu tình hình thực tế khách hàng, không phát hiện được những sai sót trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, dẫn tới những quyết định sai lầm khi cho vay.

Quy định của ngân hàng lỏng lẻo, không chặt chẽ dẫn tới việc CBTD lơ là trong công tác thẩm định, không có trách nhiệm với công việc, hoặc CBTD lợi dụng kẽ hở để lợi dụng, nhằm mục đích tư lợi cá nhân khiến kết quả thẩm định không chính xác.

Trình độ CBTD: CBTD cần có trình độ chuyên môn sâu, kỹ năng nghiệp vụ tốt. Khách hàng vay vốn ngân hàng thuộc nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau nên đòi hỏi CBTD phải có kiến thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực kinh doanh để nắm bắt được tình hình thị trường và tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Thẩm định đòi hỏi sự hiểu biết rộng, nếu CBTD có trình độ hạn chế thì kết luận đưa ra không chính xác,


36


dẫn đến quyết định cho vay sai lầm của ngân hàng, có thể khiến ngân hàng gặp rủi ro không đáng có.

Tư cách đạo đức của CBTD: CBTD phải là người có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, tư cách nghề nghiệp tốt. Tư cách phẩm chất đạo đức tốt, tư cách nghề nghiệp tốt tức là CBTD có lối sống trong sạch, không nhận hối lộ từ phía doanh nghiệp để bóp méo thông tin khách hàng, không dựa vào các mối quan hệ thân thiết với khách hàng mà ra quyết định cho vay. CBTD phải là người có thái độ bàng quan và công bằng với mọi doanh nghiệp. Tư cách đạo đức, tư cách nghề nghiệp CBTD không tốt sẽ dẫn tới kết quả thẩm định sai lệch, cho vay những phương án SXKD không có hiệu quả, ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của ngân hàng, sự phân bổ nguồn vốn ngân hàng cho khách hàng tới vay vốn cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Chất lượng thông tin: Thông tin là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng. Nếu nguồn thông tin không chính xác sẽ dẫn đến quyết định cho vay sai lầm, gây thiệt hại cho ngân hàng. Thông tin cần phải kịp thời, chính xác, đầy đủ, có chất lượng để ngân hàng ra quyết định đúng đắn.

Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thẩm định: Để phục vụ cho công tác thẩm định, ngân hàng cần có hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo tiêu chuẩn, phù hợp với yêu cầu công việc thẩm định. Hệ thống máy móc, phần mềm hỗ trợ công tác thẩm định cần đảm bảo ổn định, không bị lỗi thời, phải được cập nhật thường xuyên. Có như vậy thì mới tạo hứng thú cho CBTD, không gây bực bội ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định.

1.3.9.2 Nhân tố thuộc về phía khách hàng

Nguồn thông tin cung cấp cho ngân hàng: Những thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng là cơ sở để ngân hàng xem xét phê duyệt cấp vốn cho khách hàng vay. Nếu những thông tin khách hàng cung cấp là giả mạo, sai sự thật thì CBTD sẽ đưa ra những nhận xét sai lầm và quyết định cho vay không chính xác. Vì vậy, trong khâu thẩm định, ngân hàng phải kiểm tra thật chặt chẽ và tỉ mỉ những thông tin được cung cấp trong hồ sơ vay vốn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.

Trình độ lập hồ sơ vay vốn: Khi đến vay vốn tại ngân hàng, khách hàng cần lập bộ hồ sơ vay vốn. Bộ hồ sơ vay vốn kém chất lượng sẽ khiến ngân hàng tốn thời gian trong việc thu thập, phân tích, đánh giá… làm chậm quá trình thẩm định và giải ngân, cung cấp vốn cho khách hàng.

Phương án SXKD: Mỗi hồ sơ vay vốn, CBTD phải đánh giá về mục đích của phương án SXKD, nhu cầu về sản phẩm, năng lực cung cấp sản phẩm ra thị trường của doanh nghiệp, thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, cách thức tiêu thụ sản phẩm, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của phương án SXKD, tính khả thi và hiệu quả của phương án SXKD. Nội dung phương án SXKD không được nêu rõ ràng

37

và chi tiết trong hồ sơ vay vốn của khách hàng thì CBTD mất nhiều thời gian nghiên cứu, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của phương án.

Nếu khách hàng không làm tốt những nội dung trên, CBTD không có đánh giá chính xác nhất về hồ sơ vay vốn của khách hàng, kết quả thẩm định không chính xác, CBTD có thể đưa ra kết luận sai lầm về khách hàng và cấp vốn cho khách hàng không đúng mục đích. Chất lượng thẩm định của ngân hàng bị suy giảm.

1.3.9.3 Những nhân tố bên ngoài khác

Thị trường: Những biến động hàng ngày của thị trường cũng tác động không nhỏ tới công tác thẩm định. Sự quay lưng của thị trường đối với một sản phẩm sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm, biến một phương án SXKD có tính hiệu quả cao thành không có tính khả thi, gây thua lỗ cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng. Khi đó, kết quả thẩm định của CBTD trở nên vô nghĩa, là sai lệch. Rủi ro, chi phí và lợi nhuận mà ngân hàng tính toán khi cho khách hàng vay vốn cũng sẽ thay đổi. Rủi ro cao, chi phí tăng và lợi nhuận mà ngân hàng có được khi cho khách hàng vay vốn giảm xuống.

Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng: Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng đặt áp lực lên cho ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay, đòi hỏi quy trình thẩm định nhanh chóng và chính xác, tiết kiệm thời gian cho khách hàng, tiến độ giải ngân nhanh chóng… Những áp lực này có thể khiến cho CBTD vì muốn nhanh chóng mà bỏ qua những yếu tố cần thiết, sơ sài trong công tác thẩm định, dẫn đến quyết định sai lầm.

Tình hình tăng trưởng của ngành: Những ngành có sự phát triển ổn định sẽ giúp những phán đoán của CBTD gần chính xác so với thực tế. Những ngành phát triển không ổn định sẽ khiến CBTD mất nhiều thời gian nghiên cứu và những nhận định khó chính xác. Do đó dẫn tới kết quả thẩm định không được chính xác.

Môi trường pháp lý: Các chính sách, cơ chế quản lý đóng vai trò điều chỉnh, định hướng hoạt động cho các chủ thể trong nền kinh tế. Nếu cơ chế chính sách hợp lý, đồng bộ và có tính hiệu lực cao thì sẽ là điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế. Công tác thẩm định cũng không nằm ngoài thông lệ đó, công tác thẩm định tín dụng chịu sự điều khiển và chi phối của các văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hệ thống các văn bản pháp luật trong việc quy định thẩm định tín dụng và cho vay của NHTM được quy định chặt chẽ góp phần tác động tích cực đến hiệu quả của hoạt động cho vay, đảm bảo lợi ích và mục tiêu phát triển của khách hàng và ngân hàng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Môi trường kinh tế: Mục đích của việc phân tích môi trường kinh tế là đánh giá phương án SXKD từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế nhằm xác định xem thực hiện phương án có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế. Ngược lại, phân tích môi trường kinh tế cũng là để xem xét và đánh giá tình hình kinh tế của đất nước, khu vực và thế

38

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 17/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí