Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 14


nhanh. Chi nhánh cần có nhân viên kỹ thuật phụ trách về lĩnh vực công nghệ thông tin, sẵn sàng sửa chữa máy móc khi có vấn đề. Kết nối giữa các máy trong cùng hệ thống và với hệ thống INCAS của NHCT phải được đảm bảo ổn định. Tốc độ kết nối máy của CBTD với máy chủ phải nhanh, để quy trình thẩm định được diễn ra thuận lợi, tránh gây khó chịu cho CBTD, ảnh hưởng tới chất lượng công việc.

Bảng tính excel giúp CBTD tiết kiệm thời gian tính toán các chỉ tiêu tài chính, được cài đặt từ rất lâu nhưng không cập nhật các chỉ tiêu mới hoặc không loại bỏ bớt các chỉ tiêu đã quá cũ, không còn được sử dụng để đưa ra quyết định cấp tín dụng. Để quá nhiều chỉ tiêu không cần thiết trên bảng tính khiến CBTD dễ nhầm lẫn, có những khi các chỉ tiêu lại mâu thuẫn với nhau, CBTD phải cân nhắc khi ra quyết định. Chi nhánh cần tiến hành cập nhật lại toàn bộ bảng tính excel và cài đặt lại trên toàn hệ thống chi nhánh.

Phần mềm ứng dụng hỗ trợ phải thường xuyên được cập nhật, nâng cấp, phù hợp với xu hướng phát triển chung của giới công nghệ, đặc biệt là những phần mềm ứng dụng được sử dụng trong công tác thẩm định. Phần mềm mới ra đời có những cải tiến tốt hơn so với phần mềm cũ, thêm nhiều tính năng hơn, hỗ trợ tốt hơn nên phải được cập nhật liên tục.

3.2.6 Điều chỉnh nhiệm vụ cụ thể của các vị trí trong phòng Khách hàng doanh nghiệp

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy thẩm định cho vay BSVLĐ là yêu cầu cơ bản để có quy trình thẩm định tốt nhất, nâng cao chất lượng thẩm định.

Tổ chức bộ máy thẩm định tại Phòng KHDN - VietinBank Đông Anh hiện nay là 1 Trưởng phòng, 2 Phó phòng và 6 CBTD. CBTD tiếp nhận hồ sơ vay vốn, cũng chính là cán bộ thẩm định hồ sơ đó nên đã giảm thiểu được việc luân chuyển hồ sơ qua lại giữa CBTD và cán bộ thẩm định. Nếu hồ sơ khách hàng có vấn đề, CBTD tiếp nhận hồ sơ sẽ phải chịu trách nhiệm. Cơ cấu tổ chức phòng là khá hợp lý. Tuy nhiên, CBTD sẽ phải thực hiện tất cả công việc từ khi hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, thẩm định hồ sơ đến việc đưa ra đề xuất cấp vốn cho khách hàng. Toàn bộ hồ sơ của 1 khách hàng sẽ do 1 CBTD đảm nhận. Điều này làm cho khối lượng công việc của CBTD tăng lên nhiều, và áp lực với CBTD cũng cao, đòi hỏi CBTD phải có trình độ sâu rộng và hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, trách nhiệm của CBTD với hồ sơ vay vốn của khách hàng cũng tăng lên. VietinBank Đông Anh cần phải nâng cao kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn của CBTD để đáp ứng yêu cầu công việc tốt hơn nữa.

Cần tăng cường hơn nữa vai trò của Trưởng phòng và Phó phòng. Phó phòng chỉ ký duyệt đề xuất cấp vốn cho khách hàng vay vốn dựa vào thông tin trên TTTĐ mà

95

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

CBTD trình ký mà không kiểm tra cụ thể hồ sơ vay vốn của khách hàng. Như vậy, Phó phòng sẽ không kiểm soát được tình hình khách hàng mà CBTD đang trực tiếp làm việc. Những trường hợp đề xuất cấp vốn vượt quá giới hạn thẩm quyền của Phó phòng thì Trưởng phòng sẽ ký duyệt. Trưởng phòng và Phó phòng phải là người kiểm soát hồ sơ khách hàng sau khi CBTD đã thẩm định, như vậy mới đảm bảo tính khách quan và đảm bảo chắc chắn hơn về hồ sơ vay vốn. Chi nhánh cần xây dựng mạng nội bộ giữa các máy tính làm việc của CBTD với lãnh đạo để lãnh đạo phòng cũng như lãnh đạo chi nhánh có thể truy cập thông tin dữ liệu bất cứ khi nào, kiểm soát thông tin tốt hơn. Tất cả thông tin khách hàng đến vay vốn phải được cập nhật trên hệ thống mạng nội bộ này.

Kết cấu tổ chức bộ máy thẩm định chặt chẽ, khoa học sẽ rút ngắn thời gian thẩm định, kiểm soát tốt hơn chất lượng thẩm định. Phân công rõ ràng nhiệm vụ và gắn liền trách nhiệm của CBTD đối với công tác thẩm định sẽ đảm bảo sự nghiêm túc, minh bạch của CBTD với hồ sơ vay vốn của khách hàng. Nhờ đó, những hồ sơ vay vốn không đạt yêu cầu sẽ khó có cơ hội được tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng, tránh rủi ro không thu hồi được nợ đúng hạn, nâng cao chất lượng cho vay BSVLĐ của ngân hàng.

Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 14

3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh

3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ

Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể dẫn tới những hệ lụy liên quan, khiến hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Để đảm bảo ổn định nền kinh tế, Chính phủ cần quan tâm tới hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Chính phủ có thể tăng cường vai trò của mình trong việc hỗ trợ các ngân hàng thông qua các biện pháp sau:

Thành lập cơ quan chuyên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp: Đó là các cơ quan chuyên thu thập, phân tích và xử lý thông tin về tình hình tài chính, hoạt động SXKD của các doanh nghiệp. Sau đó, cơ quan này sẽ tiến hành đánh giá, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Khi khách hàng vay vốn, ngân hàng chỉ cần dựa vào bảng xếp hạng tín nhiệm mà ra quyết định cho vay, CBTD không cần chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng nữa. Việc này vừa giúp Chính phủ có thể nắm bắt được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, vừa cung cấp thông tin cho ngân hàng một cách khách quan, công khai thông tin doanh nghiệp để tăng tính minh bạch trong


96



hoạt động SXKD của các doanh nghiệp. Chính phủ cần có văn bản quy định những doanh nghiệp đủ điều kiện để được xếp hạng tín nhiệm, như vậy, những doanh nghiệp không đạt yêu cầu khi vay vốn ngân hàng sẽ phải đáp ứng những quy định chặt chẽ hơn. Doanh nghiệp nếu muốn được xếp hạng tín nhiệm thì hoạt động SXKD phải có hiệu quả, điều này góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Công khai chỉ tiêu trung bình của các ngành kinh tế: Hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường có hiệu quả hay không không chỉ dựa vào kết quả SXKD mà còn phải dựa vào mức độ đáp ứng so với yêu cầu của ngành kinh tế đó. Nhưng hiện nay, chưa có cơ quan nào chuyên trách việc tính toán các chỉ tiêu phân tích ngành kinh tế. Do đó, các chỉ tiêu phân tích ngành mới chỉ được đưa ra trên lý thuyết, chưa được vận dụng vào việc so sánh với hoạt động của doanh nghiệp, chưa thực sự góp phần vào việc ra quyết định cho vay đối với khách hàng. Chính phủ cần thành lập cơ quan chuyên trách phân tích ngành, công khai các chỉ tiêu này trên các phương tiện thông tin để doanh nghiệp so sánh với chỉ tiêu đó, nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngành; ngân hàng dựa vào đó để so sánh mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan liên quan trong công tác thẩm định của các ngân hàng: Công tác thẩm định cần có sự liên kết giữa ngân hàng với các cơ quan Nhà nước như cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan, văn phòng Công chứng Nhà nước, Sở Kế hoạch và Đầu tư… nên Chính phủ cần có các văn bản yêu cầu các cơ quan này hỗ trợ các ngân hàng. Trong quá trình thẩm định hồ sơ khách hàng, CBTD phải làm việc với các cơ quan liên quan để kiểm tra thông tin khách hàng, đảm bảo tính đầy đủ và tính hợp pháp của doanh nghiệp. Các con dấu của các cơ quan liên quan còn có thể bị làm giả, do đó cần có sự trao đổi thường xuyên giữa ngân hàng và các cơ quan liên quan. Nếu CBTD không xác thực được thông tin này sẽ dẫn tới cho vay sai đối tượng khách hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của ngân hàng, ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của các NHTM: Vấn đề về TSBĐ luôn là vấn đề nóng trong quan hệ vay vốn giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Quy định về điều kiện để được thế chấp tài sản, dùng tài sản làm TSBĐ trong hồ sơ vay vốn còn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Chính phủ cần đưa ra các văn bản cụ thể, quy định chi tiết về việc đăng ký quyền sở hữu tài sản của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được vay vốn dễ dàng hơn. Hoạt động phát mại TSBĐ của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về các thủ tục hành chính


97

và liên quan tới các văn bản pháp luật khác. Sự chồng chéo giữa các quy định trong các văn bản luật cần phải được giải quyết để ngân hàng thuận tiện hơn trong quá trình xử lý TSBĐ, sớm thu hồi được khoản nợ về cho ngân hàng.

3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

Năm 2012, kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi ổn định, lạc quan hơn năm 2011. Tuy nhiên, như Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới đã đưa ra nhận xét, Việt Nam còn nhiều nhiệm vụ phải làm trước mắt, đặc biệt là việc nợ xấu tăng cao và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. NHNN cần có các biện pháp kịp thời để giải quyết vấn đề này.

Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Thời gian vừa qua, nền kinh tế đã chứng kiến nhiều vụ sáp nhập các NHTM hoạt động không có hiệu quả vào các ngân hàng lớn, để đảm bảo an toàn khả năng thanh khoản của các ngân hàng, tránh gây hoang mang lo lắng cho người dân, ổn định tình hình kinh tế. Việc này đã mang đến dấu hiệu tích cực khi trên thị trường chỉ còn tồn tại những ngân hàng làm việc thực sự có hiệu quả, cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ gay gắt hơn. Hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay, do đó, khi có ngân hàng hoạt động không có hiệu quả tuyên bố phá sản sẽ khiến người dân hoang mang, ảnh hưởng tới đời sống xã hội. Việc sáp nhập vào các ngân hàng lớn vừa làm cho người dân tin tưởng vì chất lượng hoạt động của các ngân hàng, vừa giúp ngân hàng yếu kém có khả năng thanh toán các khoản nợ. Do tính chất lan truyền của hoạt động kinh doanh ngân hàng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là việc làm cần thiết của NHNN, tránh sự đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng. Như vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, ngân hàng cần cải cách bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình kinh tế, đảm bảo tình hình an toàn vốn, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Hoàn thiện các văn bản quy định: Để tăng cường hoạt động vay vốn của các doanh nghiệp tại các NHTM, thúc đẩy phát triển kinh tế, NHNN đã yêu cầu các NHTM giảm lãi suất huy động, từ đó giảm lãi suất cho vay doanh nghiệp. Trong thời gian ngắn, NHNN điều chỉnh lãi suất cho vay tới 2 lần, khiến cho các NHTM phải điều chỉnh lãi suất với những hồ sơ vay vốn đã được cấp vốn trước đó. Công tác cho vay BSVLĐ của ngân hàng tuân theo các quy định của pháp luật, được thể hiện bằng các văn bản quy định của NHNN, chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, văn hóa – xã hội, môi trường pháp lý. Chỉ những thay đổi nhỏ trong quy định cũng có thể ảnh hưởng tới quyết định cho khách hàng vay hay không của NHTM. NHNN cần nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định, xem xét tác động của các quyết định tới hoạt động của các ngân hàng.

98



Hoàn thiện Trung tâm Thông tin tín dụng CIC: CBTD cũng sử dụng những thông tin từ CIC để hỗ trợ việc ra quyết định. Những thông tin này khá chính xác, độ tin cậy cao. Tuy nhiên, vẫn còn có những thiếu sót nhất định. Đánh giá xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của trung tâm phải được đảm bảo công bằng, không có mưu đồ riêng, tính toán vụ lợi cá nhân của cán bộ xếp hạng. Nhiều khi doanh nghiệp đáp ứng được toàn bộ các yêu cầu của ngân hàng nhưng lại không đủ điều kiện để được cho vay theo tiêu chuẩn của CIC thì doanh nghiệp đó cũng không được cấp vốn vay. Quyết định từ chối cho vay một dự án tốt không chỉ ảnh hưởng lớn tới hoạt động của doanh nghiệp mà ngân hàng cũng không thu được lợi nhuận từ những phương án SXKD có hiệu quả đó. Thông tin tại CIC có ảnh hưởng đến quyết định của CBTD, vì vậy, cán bộ đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp phải có lối sống trong sạch, minh bạch và công bằng, không tham ô, không nhận hối lộ. Xếp hạng tín nhiệm khách hàng phải dựa trên các tiêu chí đã được quy định, rõ ràng, chính xác, là nguồn thông tin tin cậy hỗ trợ tốt cho CBTD trong việc ra quyết định.

Ban hành các chính sách kịp thời, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế: Chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, NHNN đã ban hành những văn bản yêu cầu các ngân hàng giảm mức trần lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng vay vốn mở rộng SXKD, thúc đẩy phát triển kinh tế. Những chính sách về lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển chung của nền kinh tế, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan. Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vẫn phải đảm bảo để ngân hàng có lợi nhuận. Ngoài ra, các văn bản hướng dẫn, những quy định trong công tác thẩm định cần ban hành kịp thời với xu hướng biến động chung của hoạt động cho vay của ngân hàng. NHNN cũng nên tổ chức các chương trình đào tạo, các buổi hội thảo, trao đổi giữa các ngân hàng để thảo luận những vấn đề chung, đưa ra ý kiến đóng góp nhằm phát triển hơn nữa ngành ngân hàng. Chính sách điều chỉnh kịp thời phù hợp với tình hình kinh tế để CBTD có thể quyết định cho vay đúng đắn nhất, nắm bắt các cơ hội kinh doanh của ngân hàng.

3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

Vietinbank cần tăng cường phát huy vai trò là người tổ chức, hướng dẫn cho chi nhánh thực thi chính sách, quy trình, quy định trong hoạt động cho vay đối với KHDN. Trong thời gian tới xin được kiến nghị Vietinbank xem xét các đề xuất sau:

Mở rộng phạm vi tuyển dụng nhân sự: Không nên chỉ bó hẹp phạm vi tuyển dụng trong khuôn khổ đào tạo của một số trường đại học công lập có uy tín như hiện nay. Việc làm này sẽ bỏ qua những ứng cử viên có năng lực khác. CBTD phải là những người giỏi, có năng lực, trình độ chuyên môn vững vàng, phẩm chất đạo đức

99

tốt, không thể chỉ xem xét dựa trên nguồn đào tạo mà đánh giá năng lực CBTD. NHCT nên tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho các ứng viên, tạo cơ hội cho các ứng viên có năng lực thực sự và có phẩm chất tốt phù hợp với yêu cầu công việc có cơ hội được làm việc.

Hoàn thiện và bổ sung cơ chế, chính sách: Do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng nên NHCT Việt Nam cần bổ sung cơ chế chính sách, chế độ đãi ngộ, yêu cầu công việc, nghĩa vụ và quyền lợi của đội ngũ CBTD. NHCT nên có chính sách ưu đãi các CBTD về thu nhập, thường xuyên quan tâm, động viên, khen thưởng với những CBTD giỏi. Sự quan tâm đúng lúc và thường xuyên sẽ tạo động lực cho CBTD làm việc hiệu quả hơn.

Nâng cao chất lượng hệ thống INCAS: Hệ thống INCAS được đưa vào sử dụng tại các chi nhánh của VietinBank từ năm 2006, do các chuyên viên kỹ thuật am hiểu về công nghệ thông tin và hiểu biết rất rõ hoạt động của ngân hàng thiết kế. Toàn bộ thông tin do CBTD nhập vào khi phát sinh nghiệp vụ được kiểm soát bởi trung tâm INCAS tại trụ sở chính của VietinBank. Tốc độ truy vấn tin trong hệ thống INCAS tại chi nhánh vẫn còn chậm, đôi khi CBTD không thể truy cập được vào hệ thống, ảnh hưởng tới tiến độ làm việc của CBTD. NHCT cần thường xuyên nâng cấp chất lượng đường truyền thông tin, nâng cấp chất lượng hệ thống INCAS để thông tin phục vụ kiểm soát được chặt chẽ và nhanh chóng. CBTD và người kiểm soát có thể truy cập vấn tin bất cứ khi nào cần mà không bị gián đoạn.

Tăng cường công tác thông tin cho các Chi nhánh trong toàn hệ thống: Cập nhật thường xuyên thông tin về chủ trương, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước, các văn bản pháp luật mới ban hành có liên quan tới hoạt động ngân hàng; các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, tình hình hoạt động của các ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống. Bên cạnh đó, NHCT cần cung cấp thêm cho các Chi nhánh thông tin về hoạt động của ngành kinh tế, các chỉ tiêu trung bình ngành.

Thực hiện hỗ trợ cho các Chi nhánh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: NHCT mở các lớp đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho các CBTD. Ngoài ra, NHCT cũng nên quan tâm tới việc mời các chuyên gia, những người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng để tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi học tập nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm cho các CBTD. NHCT cũng có thể hỗ trợ kinh phí, cử cán bộ đi học ở các trung tâm nghiên cứu kinh tế, khoa học trong và ngoài nước. Cung cấp đầy đủ các tư liệu, văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn và các quy định khác có liên quan của Chính phủ, của NHNN, NHCT Việt Nam để CBTD tự tham khảo và nghiên cứu.

100



KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Trên cơ sở định hướng của VietinBank Đông Anh trong thời gian tới, chương 3 đưa ra một số đề xuất và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định cho vay BSVLĐ đối với KHDN tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh. Với những giải pháp được đề xuất, hy vọng trong thời gian tới, chất lượng công tác thẩm định cho vay BSVLĐ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh sẽ được nâng cao hơn nữa, thực sự mang lại hiệu quả trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.


101

KẾT LUẬN


Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, tới nay, VietinBank Đông Anh đã đạt được những thành tựu đáng kể. Với vị trí địa lý thuận lợi, đội ngũ nhân viên nhiệt tình và thân thiện với khách hàng, quy trình làm việc hiệu quả, VietinBank Đông Anh ngày càng thu hút nhiều khách hàng, là lựa chọn của các doanh nghiệp khi có nhu cầu vay vốn. Doanh số cho vay BSVLĐ của Chi nhánh không ngừng tăng lên trong những năm qua cho thấy vai trò của VietinBank Đông Anh trong sự phát triển của khu vực. Để tăng hơn nữa doanh thu từ cho vay BSVLĐ, Chi nhánh cần phải hoàn thiện những hạn chế còn tồn tại, phát huy những thế mạnh đã đạt được trong công tác thẩm định cho vay BSVLĐ.

Qua quá trình nghiên cứu công tác thẩm định cho vay BSVLĐ đối với KHDN tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh giai đoạn năm 2009 – 2011, em nhận thấy Chi nhánh đã có nỗ lực đáng kể để cải thiện chất lượng cho vay BSVLĐ, rút ngắn quy trình thẩm định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn dễ dàng hơn. Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số nhược điểm cần phải cải thiện. Em xin đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện những hạn chế đó, hoàn thiện công tác thẩm định, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định cho vay BSVLĐ tại VietinBank Đông Anh.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quá trình nghiên cứu công tác thẩm định cho vay BSVLĐ tại VietinBank Đông Anh, nhưng do kiến thức còn hạn chế nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các CBTD, Lãnh đạo Phòng KHDN của VietinBank Đông Anh để khóa luận được hoàn thiện hơn.


102


Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 17/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí