Đánh Giá Công Tác Thẩm Định Cho Vay Bổ Sung Vốn Lưu Động Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam – Chi


Trong số rất nhiều chỉ tiêu được đưa ra để đánh giá của Công ty cổ phần Cầu Đuống, CBTD chỉ xem xét tới chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh, kết quả SXKD và hệ số tự tài trợ. Tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu của Công ty rất cao, chiếm 99,58% chứng tỏ nguồn vốn của Công ty gần như hoàn toàn phụ thuộc, nhưng CBTD lại không quan tâm tới. Sự chủ quan của CBTD khi đánh giá tình hình khách hàng, đánh giá rủi ro có thể xảy ra là nguyên nhân lớn khiến kết quả thẩm định không chính xác, dẫn tới việc Công ty không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.

Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm của công ty so với các đối thủ không cụ thể, rõ ràng, chưa cho thấy ưu điểm nổi bật trong sản phẩm của Công ty so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Khi đánh giá thị trường đầu vào, đầu ra của sản phẩm, CBTD còn chủ quan lơ là, không xem xét tính đến các yếu tố rủi ro có thể xảy ra. Năm 2011, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, báo hiệu năm 2012 khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động SXKD, khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm, CBTD vẫn lạc quan về nhu cầu sản phẩm trên thị trường.

2.4 Đánh giá công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh

2.4.1 Những điểm đã đạt được

Có sự hợp tác với các cơ quan chức năng trong việc thẩm định hồ sơ khách hàng: Hồ sơ khách hàng là những minh chứng chính xác về hoạt động hợp pháp của khách hàng, phù hợp với quy định về khách hàng khi cho vay. Không có sự phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan thì CBTD không thể đánh giá được hồ sơ vay vốn khách hàng lập có chính xác không, những thông tin trong đó có bị sai lệch không. Ngân hàng đã có sự liên hệ hợp tác với các cơ quan chức năng, cơ quan có thẩm quyền để xác minh thông tin liên quan đến khách hàng vay vốn như cơ quan công chứng, chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động...

Chính sách chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng tốt: Ngân hàng đã xây dựng được hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng giúp CBTD phân loại được khách hàng, đánh giá được năng lực tài chính, khả năng quản lý của khách hàng một cách khách quan. Tùy theo mức xếp hạng khách hàng mà CBTD xem xét mức cho vay phù hợp, tránh rủi ro cho ngân hàng. Chi nhánh đã cập nhật kịp thời những xu hướng và phương pháp hữu hiệu, hỗ trợ cho công tác thẩm định.

Quy trình thẩm định ngắn gọn, rõ ràng: Chi nhánh xây dựng quy trình thẩm định cho vay BSVLĐ và phân rõ trách nhiệm của các Phòng, nhiệm vụ của mỗi cán bộ

79

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

trong từng giai đoạn của công tác thẩm định. Như vậy, mỗi cán bộ sẽ có trách nhiệm đối với công việc của mình để không ảnh hưởng tới người tiếp nhận hồ sơ sau đó. Phân chia trách nhiệm cũng giúp chuyên môn hóa bộ máy thẩm định, thực hiện công tác thẩm định nhanh và chính xác.

Đội ngũ CBTD có năng lực chuyên môn cao: CBTD của ngân hàng đều là những người có năng lực chuyên môn cao, khả năng nắm bắt tốt và nhạy bén khi tiếp xúc với khách hàng. CBTD luôn niềm nở với khách hàng đến vay vốn. Với đặc thù là mỗi CBTD sẽ tiếp nhận một bộ hồ sơ và chịu trách nhiệm hoàn toàn với khoản giải ngân đó cho đến khi thanh lý hợp đồng vay vốn, CBTD của ngân hàng phải là người am hiểu nhiều lĩnh vực, có kiến thức sâu rộng.

Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 12

2.4.2 Hạn chế còn tồn tại

Thu thập và kiểm soát thông tin chưa tốt: Khách hàng muốn vay vốn ngân hàng phải có hồ sơ vay vốn hợp pháp, hợp lệ, đáp ứng các điều kiện của ngân hàng. Tuy nhiên, việc thu thập và kiểm tra tính chính xác, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ vay vốn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cần có sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị có liên quan. CBTD thực hiện kiểm tra tại chỗ nhưng không kiểm tra chéo từ các chủ thể khác như nhà cung cấp của khách hàng, khách hàng của khách hàng. Như vậy, thông tin thu thập được tại công ty khi khảo sát thực tế chỉ mang tính phiến diện, không đầy đủ. Hiệu quả của việc thu thập thông tin không cao.

Khai thác thông tin chưa hiệu quả: Với những thông tin thu thập được, CBTD mới chỉ xem xét qua loa, tính toán nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ xem xét đến một vài chỉ tiêu trong số này, còn lại các chỉ tiêu khác không được xét đến.

Quá trình thẩm định còn nhiều bất cập:

+ Phân tích các chỉ tiêu tài chính không cần thiết: CBTD tính toán rất nhiều chỉ tiêu tài chính để xem xét tình hình khách hàng, nhưng chỉ sử dụng rất ít trong số những chỉ tiêu đó để đưa ra kết luận tình hình tài chính khách hàng, rất lãng phí thời gian. Một vài chỉ tiêu không còn phù hợp nhưng vẫn được đưa ra tính toán, sau đó không sử dụng đến như xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ, trạng thái lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động…

+ Thực hiện chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng thiếu trung thực: Kết quả chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng là cơ sở để CBTD xem xét mức cho vay đối với khách hàng. Đối với khách hàng đã có mối quan hệ với ngân hàng trong thời gian dài, trả nợ sòng phẳng, báo cáo tài chính được kiểm toán, thông thường sẽ được ngân hàng cho vay tối đa theo nhu cầu và không yêu cầu phải có TSBĐ. CBTD thường dựa vào kết quả chấm điểm khách hàng trước đó để lựa chọn các yếu

80



tố, tiêu chí chấm điểm cho lần sau. Do đó, những khách hàng trước đó được xếp hạng tín dụng cao sẽ vẫn được xếp hạng tín dụng cao, không khách quan và sát với tình hình SXKD của khách hàng, không gắn với tình hình thực tế của khách hàng.

+ Công tác thẩm định TSBĐ còn mang tính chủ quan: Đối với những khoản cho vay có TSBĐ, CBTD cũng là người thẩm định giá trị TSBĐ. Giá trị TSBĐ cũng là một phần để CBTD tính ra hạn mức cho vay đối với khách hàng. Thực tế tại VietinBank Đông Anh, CBTD sẽ xem xét nguyên giá và thời gian khấu hao TSBĐ, sau đó tự định giá theo ý kiến chủ quan. Trong quá trình đánh thẩm định TSBĐ, CBTD xem xét đối chiếu với giá mua bán tài sản trên thị trường, các quy định của Nhà nước đối với một số tài sản Nhà nước có quy định khung giá tại thời điểm thẩm định để định giá TSBĐ. Ngân hàng không sử dụng các công ty chuyên định giá TSBĐ, không có cán bộ thẩm định TSBĐ riêng.

Chưa thực hiện tốt việc tìm hiểu, phát hiện và đề ra biện pháp phòng ngừa rủi ro: Để giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ, CBTD phải tính toán tới khả năng rủi ro có thể xảy ra nếu tài trợ cho khách hàng. Tuy nhiên, trong khi thẩm định, CBTD chưa thực hiện tốt việc này, không chú trọng đến việc tính toán các rủi ro có thể xảy ra đối với kế hoạch SXKD của khách hàng trong tương lại. Như vậy, khi xảy ra rủi ro, ngân hàng mới tìm cách giải quyết.

Áp lực công việc với CBTD cao: Do phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với những bộ hồ sơ mà mình tiếp nhận, CBTD sẽ phải chịu áp lực lớn khi thẩm định khách hàng và đề xuất ý kiến cho vay. Trong một số trường hợp, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng không thuộc kiến thức của CBTD thì rất dễ đưa ra kết quả thẩm định sai lầm. CBTD không đánh giá được chính xác tình hình khách hàng, gây rủi ro cho ngân hàng. Khối lượng công việc lớn, chồng chất khi CBTD phải đồng thời thẩm định nhiều bộ hồ sơ, dễ gây sai sót.

Thiếu sự giám sát của Lãnh đạo Phòng: Lãnh đạo Phòng là người xem xét đề nghị cấp vốn cho khách hàng của CBTD và ký duyệt nếu đồng ý. Như vậy, Lãnh đạo phòng chỉ biết đến thông tin khách hàng qua TTTĐ của CBTD. Những thông tin trong TTTĐ của CBTD đó có thể bị chỉnh sửa, làm sai lệch đi để phù hợp với quy định của ngân hàng để khách hàng được vay vốn. Nếu CBTD có mục đích lạm dụng chức vụ để giải ngân thì Lãnh đạo phòng cũng không thể kiểm soát được. Tất cả chỉ biết khi đến hạn trả nợ.

2.4.3 Nguyên nhân của hạn chế

Khó khăn trong việc thu thập thông tin chính xác, đáng tin cậy: Thông tin về khách hàng, quan hệ của khách hàng với các tổ chức khác, với bạn hàng ngân hàng tìm

81

hiểu qua chính hồ sơ khách hàng, qua trung tâm CIC. Thông tin của trung tâm CIC là khá chính xác, nhưng trong một số trường hợp vẫn có sự sai sót. Những thông tin để phân tích ngành cũng rất khó khăn. Những chỉ tiêu phân tích ngành chỉ mang tính chất khái niệm, những con số đưa ra mang tính ước lượng, không sát với thực tế nên không được sử dụng nhiều để so sánh, nếu có cũng chỉ là theo quy trình. Khách hàng mới quan hệ với ngân hàng thì không có nhiều thông tin lưu trữ để đánh giá.

Chưa cập nhật kịp thời các chỉ tiêu tài chính cần thiết: Khi tiếp nhận đầy đủ hồ sơ khách hàng, CBTD sẽ thẩm định thông tin tài chính của khách hàng. Dựa trên bảng tính excel và mẫu sẵn có, CBTD chỉ cần nhập thông tin trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh, sau đó các chỉ tiêu tài chính sẽ được tính toán. Các chỉ tiêu này được thiết lập sẵn từ trước, nhiều chỉ tiêu không phù hợp để xem xét nhưng vẫn được tính toán như hiệu suất sử dụng tài sản cố định, vòng quay tổng tài sản, xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ... Ngân hàng chưa cập nhật trong việc xây dựng một phần mềm tính toán các chỉ tiêu tài chính phù hợp, tránh sự mâu thuẫn giữa các chỉ tiêu không cần thiết làm gia tăng khối lượng công việc cho CBTD và dễ gây nhầm lẫn.

Rủi ro trong quá trình tác nghiệp: CBTD là người có năng lực nhưng khi bị áp lực công việc, CBTD đã bỏ qua các yêu cầu thẩm định, không xem xét khách quan, toàn diện về hồ sơ vay vốn. Các tiêu chí chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng do CBTD nhập vào hệ thống hoàn toàn phụ thuộc ý muốn chủ quan của CBTD nên khi muốn cho khách hàng vay vốn, CBTD chỉ cần nhập vào đó những thông tin tốt nhất về khách hàng sẽ cho kết quả chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng tốt. CBTD lơ là trong khi thực hiện thẩm định, chủ quan, không đánh giá toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động SXKD của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng không trả được nợ, gây tổn thất cho ngân hàng.

Chưa có cán bộ chuyên môn về thẩm định tài sản bảo đảm: TSBĐ trong hồ sơ vay vốn thường là bất động sản, tài sản cố định. Thị trường bất động sản thời gian qua có chút ít khởi sắc khi NHNN ra quyết định giảm lãi suất cho vay, tuy nhiên vẫn trong tình trạng đóng băng. Bởi vậy, thẩm định đối với TSBĐ là bất động sản chỉ là tương đối. CBTD cũng không có chuyên môn nghiệp vụ trong việc định giá TSBĐ này, nên chỉ tính theo giá thị trường tương đương tại thời điểm định giá. Với tài sản cố định đang hoạt động tại doanh nghiệp thì CBTD rất khó để xác định giá thị trường tại thời điểm thẩm định, CBTD không nắm rõ được tình trạng hoạt động của tài sản. CBTD chỉ có thời gian ngắn thẩm định tại chỗ tại doanh nghiệp, trong khi có rất nhiều vấn đề cần được làm rõ, không thể xem xét kỹ về TSBĐ.

82



Rủi ro đạo đức: Một số CBTD có tư cách đạo đức không tốt, có mục đích tư lợi cá nhân trong quá trình làm việc, cùng với khách hàng lập ra hồ sơ vay vốn ảo nhằm chiếm đoạt nguồn vốn của ngân hàng. Việc này đã khiến cho lãnh đạo ngân hàng đưa ra quyết định cho vay trên bộ hồ sơ không đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng.


83

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Chương 2 đã đề cập đến quy định chung trong thẩm định, thực trạng hoạt động cho vay BSVLĐ đối với KHDN và đã đánh giá công tác thẩm định cho vay BSVLĐ đối với KHDN tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh, thông qua đó tìm hiểu những ưu điểm đã đạt được, cũng như những hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân của hạn chế tạo cơ sở cho việc đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay BSVLĐ đối với KHDN tại Chi nhánh trong chương 3.


84



CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CHO VAY BỔ SUNG VỐN LƯU ĐỘNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH ĐÔNG ANH


3.1 Định hướng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh trong công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp trong thời gian tới

3.1.1 Nhận định xu hướng thị trường trong thời gian tới

Ngân hàng Pháp Societe General (SocGen) phát hành dự báo cập nhật cho tất cả các nền kinh tế trên thế giới trong thời gian 4 năm, từ năm 2012 tới năm 2016. Theo đó, nền kinh tế thế giới sẽ vẫn có dấu hiệu giảm phát, đặc biệt là sự sụt giảm trong thương mại của các nền kinh tế trong khu vực đồng tiền chung châu Âu. Nền kinh tế của một số nước trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc cũng sẽ gặp khó khăn trong thời gian tới. Đây là thị trường xuất khẩu truyền thống, có thế mạnh của Việt Nam và đang có xu hướng tăng dần kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, nếu nền kinh tế của các nước trong khu vực gặp khó khăn, hoạt động xuất khẩu bị đe dọa, khả năng tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sụt giảm, tình hình SXKD của các doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn hơn, cạnh tranh gay gắt hơn.

Theo báo cáo mới nhất của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) về tình hình kinh tế Việt Nam trong vòng 1 năm qua, nền kinh tế năm 2012 đã có những thay đổi ổn định: “Các nguy cơ bị tổn thương đối với nền kinh tế Việt Nam đã giảm đi nhiều so với một năm trước đây. Cụ thể là lạm phát giảm, cán cân vãng lai được cải thiện, thị trường ngoại hối ổn định và quan trọng nhất là dự trữ ngoại hối tăng trở lại. Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức mà đáng kể nhất là nợ xấu đang tăng lên và vấn đề tái cấu trúc khu vực tài chính - ngân hàng. Trong đó, cải cách khu vực tài chính và khu vực ngân hàng không phải là một công việc có thể làm ngay một sớm một chiều, mà đòi hỏi phải có những nỗ lực và quyết tâm lớn”. Trong thời gian tới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng sẽ chứng kiến những thay đổi, cải cách, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm giảm thiểu nợ xấu và nâng cao chất lượng hoạt động các NHTM. Chất lượng hoạt động tín dụng cần phải nâng cao hơn nữa, đặc biệt là yêu cầu về nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong các ngân hàng.

Thời gian qua, thị trường ngân hàng Việt Nam chứng kiến nhiều vụ mua bán, sáp nhập của các ngân hàng. Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả đều được sáp nhập

85

vào các ngân hàng lớn để đảm bảo khả năng thanh khoản và ổn định thị trường. Công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đang dần đem đến bộ mặt mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam với sự tồn tại của các ngân hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có sức cạnh tranh trên thị trường, giảm tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển, thoát khỏi khó khăn mà mục tiêu trước tiên là kiềm chế lạm phát, giữ lạm phát ở mức một con số. Như vậy, cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ diễn ra gay gắt hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải có một chiến lược phát triển đúng đắn, tầm nhìn sâu rộng để đứng vững trên thị trường ngân hàng.

3.1.2 Định hướng phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh trong thời gian tới

Từ những nhận định của các tổ chức quốc tế về xu thế thị trường trong thời gian tới, sự điều chỉnh của Hội sở chính, từ những phân tích đánh giá của VietinBank Đông Anh với tình hình khu vực, Chi nhánh đã xác định được định hướng phát triển trong thời gian tới.

Trong thời gian tới, VietinBank Đông Anh tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý Chi nhánh, tổ chức hoạt động trong các Phòng một cách chặt chẽ, khoa học, hợp lý để tạo thuận lợi trong quá trình làm việc và giảm bớt khối lượng công việc cho nhân viên. Tổ chức phân công công việc một cách khoa học, chặt chẽ và thống nhất trong toàn bộ Chi nhánh. Thông tin cập nhật hàng ngày có liên quan tới hoạt động của Chi nhánh đều phải được truyền tải tới từng cán bộ, nhân viên trong Chi nhánh và đảm bảo thông tin chính xác, dễ hiểu, không gây hiểu lầm, không mang nhiều tầng nghĩa.

Áp dụng chính sách cho vay của VietinBank một cách linh hoạt, hợp lý theo từng thời kỳ, từng giai đoạn, phù hợp với mục tiêu phát triển của hệ thống NHCT nói riêng và chính sách của NHNN nói chung.

Quan tâm hơn nữa tới khách hàng của Chi nhánh, phát hiện và thu hút khách hàng mới đến với Chi nhánh, cẩn trọng hơn với từng đối tượng khách hàng, giành mối quan tâm đến KHDN. Đa dạng hóa hoạt động cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp.

Áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động của Chi nhánh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống INCAS của Chi nhánh, đảm bảo thông tin khách hàng được cập nhật thường xuyên, kịp thời và chính xác. Thông tin trong hệ thống INCAS được đặt dưới sự kiểm soát của Lãnh đạo Phòng, tránh tình trạng chỉ CBTD thực hiện nghiệp vụ mới nắm bắt được thông tin như hiện nay.


86


Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 17/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí