Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Thực Hiện Cơ Chế Tự Chủ Tại Ktnn

giải quyết công việc, kết quả đầu ra và tổ chức sắp xếp lại lực lượng lao động… để nâng cao hiệu quả thực thi nhiệm vụ và tích kiệm kinh phí tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.

Thứ năm: công tác kiểm tra quản lý, sử dụng NSNN của các đơn vị chưa thực sự thường xuyên, thường kiểm tra định kỳ sau khi thực hiện xong một giai đoạn của chu trình quản lý tài chính (kiểm tra lồng ghép quyết toán năm, kiểm toán định kỳ). Do đó, việc phát hiện ra những sai sót và có biện pháp điều chỉnh từng giai đoạn của chu trình quản lý tài chính (lập dự toán, phân bổ, giao dự toán, quyết toán…) còn chưa kịp thời chấn chỉnh các tồn tại trong công tác quản lý tài chính.

Thứ sáu: trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ các đơn vị, cá nhân chưa chú trọng đến việc đánh giá phân loại, xếp loại cán bộ công chức để có hình thức chi khen thưởng cho tập thể và cá nhân có thành tÝch góp trong việc nâng cao hiệu suất công việc với chi phí thấp nhất phần nào làm giảm hiệu quả của cơ chế tự chủ, chưa khai thác hết tiềm, sáng tạo của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ.

Thứ bẩy: một số đơn vị chưa tuyển đủ biên chế trong khi kinh phí quản lý hành chính hàng năm được cấp theo biên chế kế hoạch được giao nên có thu nhập tăng thêm cao hơn các đơn vị đã tuyển đủ biên chế. Vì vậy, nhìn vào mức chi thu nhập tăng thêm không đánh giá chính xác khả năng tiết kiệm chi phí của đơn vị.

2.3.2.2 Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Thứ nhất: do việc xây dựng định mức khoán sát với thực tế là một vấn đề khó, đòi hỏi phải căn cứ vào thực tế sử dụng qua nhiều kỳ, phân tích các yếu tố liên quan để xây dựng mức khoán đảm bảo hiệu quả nhất, phải phù hợp với giá cả thị trường, phù hợp với khả năng nguồn kinh phí của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên khả năng giám sát, theo dõi chi tiêu để làm cơ sở xây dựng định mức khoán của bộ máy quản trị, kế toán còn hạn chế; kinh phí phân bổ cho chi thường xuyên tự chủ (ngoài quỹ tiền lương) còn thấp nên chưa khuyến khích cho các đơn vị trực thuộc xây dựng định mức khoán chi. Do định mức khoán chi hoạt động gặp khó khăn về nguồn kinh phí để thực hiện khoán. Cụ thể, giai đoạn 2017 - 2018, định mức chi thường xuyên tăng, nhưng bao gồm chi cho hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP (tiền lương và chi

hoạt động thường xuyên) vào định mức, nên thực tế định mức chi thường xuyên không tăng trong khi giá cả thị trường tăng, nên KTNN gặp khó khăn trong nguồn kinh phí thực hiện khoán.

Thư hai: do cơ chế chính sách của Nhà nước cho phép lập dự toán theo biên chế được giao (kể cả biên chế chưa tuyển đủ) trên cơ sở định mức phân bổ NSNN nên có một số hạn chế nhất định như: định mức phân bổ kinh phí chưa thực sự gắn với các tiêu chí đảm bảo chất lượng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chưa làm rõ được trách nhiệm giữa kinh phí được giao và mức độ hoàn thành công việc. định mức phân bổ dự toán chi chưa được điều chỉnh phù hợp với thực tế và tính toán đầy đủ các yếu tố liên quan đến đặc thù ngành và biến động của thị trường.

Thứ ba: cơ chế chính sách cho phép sử dụng kinh phí quản lý hành chính của chỉ tiêu biên chế chưa tuyển đủ. Vì vậy, nhìn vào mức chi thu nhập tăng thêm không đánh giá chính xác khả năng tiết kiệm chi phí của đơn vị.

Thứ tư: công tác quyết toán chưa gắn với kết kết quả đầu ra, khối lượng, chất lượng công việc và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao do Nhà nước chưa có hệ thống chỉ tiêu, chuẩn mực để đánh giá kết quả hoạt động của các đơn vị để khuyến khích cán bộ, công chức nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như nỗ lực trong việc sử dụng tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Thư năm: việc chi chi khen thưởng cho tập thể và cá nhân có thành tích còn hạn chế là do chưa xây dựng được các tiêu chí để đánh giá hiệu quả công tác hàng năm của cán bộ, công chức, bên cạnh đó ý thức bình bầu danh hiệu, xét thành tích thi đua của công chức chưa khách quan phản ánh đúng kết quả công tác của người được bình bầu.

Thư sáu: việc kiểm tra quản lý, sử dụng kinh phí thường xuyên tự chủ của các đơn vị chưa thường xuyên là do công tác tham mưu xây dựng kế hoạch kiểm tra định kỳ, đột xuất của đơn vị dự toán cấp I chưa được chú trọng.

Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Kiểm toán nhà nước - 11

2.3.3 Nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện cơ chế tự chủ tại KTNN‌

Thứ nhất: Kinh phí quản lý hành chính giao cho KTNN thực hiện chế độ tự chủ được phân bổ theo định mức phân bổ NSNN trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền

phê duyệt; trong khi đó khối lượng công việc của KTNN do yêu cầu tăng nhiệm vụ theo Luật NSNN năm 2015 và Luật KTNN năm 2015 nhà nước hiện nay vẫn chưa có một căn cứ xác đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn với số lượng biên chế như thế nào là phù hợp, dẫn đến nhu cầu chi kinh phí không hoàn toàn tỉ lệ thuận với khối lượng lớn công việc được giao. Định mức phân bổ ngân sách chưa quan tâm đến đặc thù ngành thường xuyên phải di chuyển đến các đơn vị trên phạm vi cả nước, địa bàn rộng, cho nên chi phụ cấp lưu chú, đi lại tương đối lớn; bên cạnh đó hệ thống công sở, trang thiết bị được Nhà nước đầu tư hiện đại cần phải đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để vận hành; trong khi đó kinh phí tự chủ còn hạn chế, định mức phân bổ ngân sách thấp, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế; do đó, việc tiết kiệm chi nhằm tăng thu nhập cho người lao động, trích lập các quỹ là rất khó khăn...

Thứ hai: Theo quy định của cơ chế, kinh phí quản lý hành chính giao thực hiện chế độ tự chủ ngoài phục vụ các nội dung chi hoạt động thường xuyên như: tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị... còn có cả chi phí mua sắm tài sản. Tuy nhiên, cơ chế không quy định rõ các tài sản nào được giao trong dự toán trong kinh phí tự chủ; như vậy, ảnh hưởng đến việc phân bổ kinh phí và xác định kinh phí tiết kiệm của đơn vị.

Thứ ba: Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước đã được quy định tại điều 2, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP là thực hiện quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên điều này chưa được thể hiện rõ nét.

Thứ tư: Về Quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan vẫn phải căn cứ chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; mức chi, chế độ chi, tiêu chuẩn định mức trong Quy chế chi tiêu nội bộ không được vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trường hợp Quy chế chi tiêu nội bộ cơ quan xây dựng vượt quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành thì cơ quan quản lý cấp trên hoặc cơ quan tài chính có trách nhiệm yêu cầu cơ quan ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ điều chỉnh lại cho phù hợp.

Thư năm: Thực hiện chi kinh phí phải bảo đảm có chứng từ, hoá đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy định (trừ thanh toán khoán tiền công tác phí, cước phí sử dụng điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động của các cán bộ có tiêu chuẩn); đo đó, ảnh hưởng đến việc thực hiện khoán chi các nội dung khác;

Thứ sáu: Kinh phí tiết kiệm bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức theo hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần so với mức tiền lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định; chi khen thưởng định kỳ hoặc đột xuất cho tập thể, cá nhân; chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể, trợ cấp khó khăn, chi thêm cho người lao động thực hiện tinh giản biên chế; trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức. Với quy định như trên, thủ trưởng cơ quan mặc dù được giao quyền tự chủ nhưng cũng không thể phê duyệt, quyết định các nội dung, mức chi vượt quy định hiện hành, không thể quyết định khoán các nội dung chi hoạt động thường xuyên ngoài quy định của Nhà nước, kể cả từ nguồn kinh phí tiết kiệm của cơ quan. Điều này gây bị động trong công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan.

Thứ bẩy: Kinh phí giao cho đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ bao gồm cả kinh phí thực hiện tự chủ và kinh phí không thực hiện tự chủ đã phần nào khiến cho công tác quản lý tài chính của các đơn vị phức tạp hơn. Phần kinh phí giao thực hiện tự chủ phải thực hiện quản lý theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và các tiêu chuẩn định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành, còn phần kinh phí không thực hiện tự chủ phải được thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước, do vậy đã ảnh hưởng ít nhiều đến mức độ tự chủ của đơn vị.

Thứ tám: Đề án vị trí việc làm của KTNN chưa được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và tiêu chí đánh giá khối lượng, chất lượng công việc, thời gian giải quyết công việc, mức độ hoàn thành nhiệm vụ chưa có hướng dẫn, do đó ảnh hưởng đến biên chế và kết quả thực hiện nhiệm vụ và ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Thứ chín: Sự nhận thức của công chức về thực hiện cơ chế tự chủ của một số bộ phận công chức chưa cao, chưa thấy được việc thực hiện cơ chế tự chủ là tạo điều kiện cho thủ trưởng và cán bộ công chức trong đơn vị chủ động sử dụng biên chế và kinh phí được giao, gắn với chất lượng và hiệu quả công việc.

Như vậy, thông qua việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN giúp cho việc định hướng giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN ở chương 3.


Kết luận chương 2


Tác giả đã vận dụng những cơ sở khoa học được trình bày trong chương 1 để phục vụ công tác nghiên cứu tại Chương 2 thực trạng thực hiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN. Từ thực tế phân tích báo cáo quyết toán và tình hình sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên tại KTNN giai đoạn năm 2015 - 2017 có thể thấy rằng về cơ bản cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đã phát huy được hiệu quả, tích kiệm trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính theo đúng mục tiêu của cơ chế, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức và người lao động. Bên cạnh đó, cũng còn một số tồn tại, vướng mắc nhìn từ phía cơ chế cần được Chính phủ đổi mới, điều chỉnh và xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với thực tiễn hiện nay. Từ thực tế nghiên cứu ở chương 2 là nền tảng quan trọng để tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN và kiến nghị với Chính phủ hoàn thiện những nội dung chưa phù hợp ở chương 3.

CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI KTNN‌


3.1 Định hướng hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm‌

3.1.1 Định hướng chung của Nhà nước‌

Theo Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, Chính phủ xác định trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.

Như vậy có thể thấy quyết tâm của Chính phủ cũng như sự đánh giá của Chính phủ về vai trò và tầm quan trọng của Cải cách HCNN. Đây là quan điểm chỉ đạo quyết liệt cho các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống HCNN cần tích cực triển khai thực hiện một cách có hiệu quả các chủ trương, chính sách cải cách đã triển khai ở giai đoạn trước, tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách ở giai đoạn tiếp theo để thực hiện việc cải cách hành chính một cách toàn diện.

Tại Điều 26, Luật thực hành, tiết kiệm chống lãng phí được Quốc hội khóa 13 đã nêu: “Giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và tài chính cho các cơ quan, tổ chức hoạt động bằng kinh phí ngân sách nhà nước khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; khuyến khích cơ quan, tổ chức thực hiện giao khoán một số khoản kinh phí đến người quản lý, sử dụng trực tiếp”.

Thực hiện Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ về quản lý biên chế công chức và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ, công chức. Theo đó biên chế công chức được xác định trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu công chức theo ngạch; mỗi cơ quan cần xác định rõ vị trí việc làm thì mới xác định được biên chế

công chức để tuyển dụng. Đó chính là cơ sở và giải pháp có tính liên thông góp phần xác định biên chế đúng, biên chế đủ nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức.

Theo lộ trình Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2012-2020, quan điểm của chính sách cải cách tiền lương là coi tiền lương là đầu tư trực tiếp cho con người, đầu tư cho phát triển, tiền lương là nguồn thu nhập chính của cán bộ, công chức và đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động. Vì vậy trong giai đoạn quá độ Nhà nước đang thực hiện lộ trình điều chỉnh tiền lương tối thiểu (2012- 2020) cần tiếp tục cho phép thực hiện cơ chế sử dụng từ kinh phí tiết kiệm để chi tăng thu nhập cho cán bộ, công chức theo năng lực và hiệu quả công việc, nhằm tạo động lực làm việc, thúc đẩy năng suất lao động (vì trong khi mức tiền lương thu nhập của cán bộ, công chức còn hạn chế có khó khăn). Sau khi lộ trình cải cách chính sách tiền lương đã đạt mục tiêu về tiền lương tối thiểu, không nên tiếp tục thực hiện cơ chế sử dụng kinh phí tiết kiệm để chi tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, vì thực chất đây cũng là kinh phí bố trí để phục vụ hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nhưng lại dùng để chi tăng thu nhập; theo đó khi nhà nước thực hiện tiền lương tối thiểu đã đảm bảo đủ và quan hệ tiền lương phù hợp, đến năm 2020 sẽ tổng kết cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước, để kiến nghị Chính phủ cơ chế quản lý tài chính mới cho phù hợp.

Mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan Nhà nước giai đoạn 2014-2020 là tiếp tục hoàn thiện và thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và tài chính đối với cơ quan nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu của Chiến lược tài chính 2011-2020 là xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vữmg, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; huy động, quản lý, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng; đẩy mạnh cải cách hành chính; nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, quả, hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước.

3.1.2 Định hướng của Kiểm toán nhà nước

Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 927/2010/UBTVQH12 ngày 19/4/2010 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020

nhằm nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN như một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; xây dựng KTNN có trình độ chuyên nghiệp cao, từng bước hiện đại, trở thành cơ quan kiểm tra tài chính công có trách nhiệm và uy tín, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Cùng với đó, một mục tiêu quan trọng được Quốc hội đặt ra cho cơ quan KTNN như là công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp trong thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, các địa phương.

Mục tiêu của KTNN là tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của KTNN theo mô hình quản lý tập trung thống nhất như hiện nay, gồm: các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành, các KTNN chuyên ngành, các KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp.

Phấn đấu đến năm 2020 hệ thống tổ chức bộ máy theo hướng đồng bộ, có đủ cơ cấu và lực lượng thực hiện nhiệm vụ theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở đảm bảo về số lượng, cơ cấu hợp lý và chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Đẩy mạnh cải cách hành chính toàn diện, nhất là cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động kiểm toán. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tài chính và hoạt động chuyên môn. Tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên tăng thêm hàng năm.

3.2 Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN‌

Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, cải cách tài chính công là nhiệm vụ rất nặng nề, nhất là nhiệm vụ đổi mới cơ chế tài chính của cơ quan hành chính để thực sự tăng tính tự chủ của các cơ quan, đơn vị. Do vậy, đây

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 18/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí