Tăng Cường Công Khai Minh Bạch Trong Quản Lý Tài Chính

- Công tác kiểm tra, giám sát nhằm siết chặt hơn nữa kỷ luật, kỷ cương tài chính để bảo đảm sử dụng tiền, tài sản nhà nước đúng mục đích, chế độ và tiết kiệm, hiệu quả;

- Phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính, tài sản, thời gian và nguồn nhân lực.

3.2.6 Tăng cường công khai minh bạch trong quản lý tài chính

* Căn cứ đề xuất các giải pháp


Căn cứ Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 7/10/ 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính.

* Nội dung các giải pháp


Các cấp ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự toán và quyết toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê chuẩn, kể cả khoản ngân sách bổ sung đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin theo đúng luật ngân sách nhà nước; công khai tài chính trong việc quản lý và sử dụng kinh phí quản lý hành chính như:

- Chi mua sắm tài sản, phương tiện, chi hội nghị, hội thảo, tổng kết, đi công tác trong nước và nước ngoài. Chi thanh toán dịch vụ công cộng, chi phí thuê mướn, chi vật tư văn phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc....;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

- Chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu, sử dụng kinh phí ngân sách của đơn vị theo quy định để tạo điều kiện cho việc kiểm tra, thanh tra, giám sát.

* Điều kiện thực hiện giải pháp

Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Kiểm toán nhà nước - 13


Thủ trưởng đơn vị dự toán chịu trách nhiệm ban hành Quyết định công bố công khai ngân sách và các biểu mẫu theo quy định, công bố số liệu công khai dự toán, quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán trực thuộc đã được cấp có thẩm quyền quyết định, phê duyệt.

* Dự kiến kết quả thực hiện giải pháp

Công khai tài chính không chỉ nhằm phòng ngừa tham nhũng mà còn là biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức và viên chức nhà nước, tập thể người lao động trong việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát quá trình quản lý và sử dụng NSNN và tài sản công; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính; bảo đảm sử dụng có hiệu quả NSNN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

3.2.7 Hoàn thiện tổ chức bộ máy và tăng cường năng lực cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý tài chính‌

* Căn cứ đề xuất giải pháp


Căn cứ Luật ngân sách năm 2015; căn cứ Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020; căn cứ thực tế tổ chức bộ máy quản lý tài chính tại KTNN còn chưa phù hợp với Luật NSNN. Vì Văn phòng KTNN là đơn vị dự toán cấp I, đồng thời Văn phòng là đơn vị dự toán cấp III.

* Nội dung giải pháp


- Thành lập Vụ Tài chính trên cơ sở tách Ban Tài chính trực thuộc Văn phòng KTNN theo Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020; triển khai nâng cấp phần mềm quản lý tài chính trong toàn ngành;

- Xây dựng Kế hoạch bồi dưỡng, cập nhận kiến thức quản lý tài chính, tài sản nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý tài chính và coi đây là nhiệm vụ bắt buộc đối với các đối tượng hàng năm;

- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý tài chính, xây dựng hệ thống kế toán ngân sách thực hiện trên máy tính cho phép theo dõi quá trình chi tiêu ngân sách của tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách. Như vậy, có thể quản lý chi tiêu ngân sách một cách hiệu quả, trên cơ sở đó đưa ra các phân tích và điều hành chính sách hợp lý, tức thời.

* Điều kiện thực hiện giải pháp

- Để thực hiện được giải pháp này KTNN cần tiếp tục trình Ủy Ban thường vụ Quốc hội phê duyệt quyết định thành lập Vụ Tài chính trên cơ sở chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt;

- Xây dựng Kế hoạch bố trí kinh phí cho việc triển khai phần mềm quản lý tài chính toàn ngành và tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức quản lý tài chính, tài sản nhà nước cho đội ngũ làm công tác quản lý tài chính. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, quy mô ngân sách, số lượng, giá trị tài sản được giao quản lý, sử dụng tại KTNN ngày càng tăng.

* Dự kiến kết quả đạt được


- Bộ máy quản lý tài chính được hoàn thiện là cơ sở pháp lý, môi trường thuận lợi cho đơn vị dự toán cấp I thực hiên việc kiểm tra, kiểm soát công tác quản lý tài chính các đơn vị dự toán cấp dưới công bằng, minh bạch và khách quan;

- Phần mềm quản lý tài chính trong toàn ngành đi vào hoạt động sẽ giảm thủ tục hành chính, giảm đầu mối công việc; đơn vị dự toán cấp trên có thể kiểm soát toàn bộ các hoạt động quản lý tài chính của các đơn vị dự toán cấp dưới và kịp thời chấn chỉnh đơn vị vi phạm trong công tác quản lý, sử dụng NSNN;

- Công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho độ ngũ làm công tác quản lý tài chính sẽ phục vụ đắc lực cho việc tham mưu, cung cấp thông tin cho lãnh đạo công tác quản lý tài chính đúng với quy định của nhà nước.


Kết luận Chương 3‌


Qua nghiên cứu cơ chế tự chủ và tìm hiểu thực tế công tác quản lý tài chính tại KTNN, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Thứ hai: Quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ.

Thứ ba: Sửa đổ, bổ sung Quy chế chi tiêu nội bộ.


Thứ tư: Sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý, sử dụng tài sản công. Thứ năm: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chi ngân sách. Thứ sáu: Tăng cường công khai minh bạch trong quản lý tài chính.

Thứ bẩy: Hoàn thiện tổ chức bộ máy và tăng cường năng lực cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý tài chính

Bên cạnh những giải pháp được đề xuất để hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại KTNN, tác giả còn đê xuất kiến nghị với Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ‌


1 Kết luận

Đề tài đã nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề về quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính; từ lý luận, thực trạng đến việc đề ra một số giải pháp nhằm hoàn hiện cơ chế quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và KTNN nói riêng. Đề tài đã đạt được một số kết quả sau:

Đã hệ thống hoá được toàn bộ lý luận chung về quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước và mối quan hệ giữa cơ chế, chính sách của nhà nước. Từ thực tiễn triển khai thực hiện cơ chế tự chủ để đánh giá lại thực trạng công tác quản lý tài chính tại KTNN. Trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu đạt được và những nhân tố ảnh hưởng, tồn tại, hạn chế của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện tại KTNN.

Đề tài đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại KTNN, đồng thời kiến nghị với Chính phủ nghiên cứu đổi mới, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính trong thời gian tới.

2 Kiến nghị với Chính phủ


Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 đã phát huy hiệu quả, khẳng định đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Mặc dù vậy, quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập; để khắc phục những hạn chế, bất cập Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/ 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và Thông tư số 71/2014/TTLT-BTC-BNV quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước đã được ban hành đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn, tuy nhiên một số hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện vẫn chưa được giải quyết và đòi hỏi cần phải cải cách, điều chỉnh phù hợp đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Bên cạnh những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại KTNN, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp kiến nghị với Chính phủ nhằm hỗ trợ cho việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm như sau:

Thứ nhất: định mức phân bổ NSNN cho các cơ quan, đơn vị tính trên biên chế còn mang tính chủ quan, chưa chính xác, mặt khác định mức chưa được điều chỉnh kịp thời nên việc phân bổ kinh phí giao thực hiện tự chủ còn chưa thật sự phù hợp, thiếu cơ sở. Nguồn kinh phí được giao tự chủ trong tổng chi NSNN cấp cho cơ quan, đơn vị chưa hợp lý, dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành chính để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức khá lớn và trở thành phổ biến, nên dễ dẫn đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động hành chính bị hạn chế. Do đó, định mức phân bổ NSNN ngoài căn cứ theo biên chế được phê duyệt cần phải có thêm các căn cứ khác như: chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cơ quan, hệ thống công sở, trang thiết bị...; để thuận lợi trong quản lý và xác định đúng kinh phí tiết kiệm, đảm bảo công bằng trong các cơ quan hành chính.

Thứ hai: cơ quan được giao kinh phí tự chủ từ NSNN căn cứ vào số lượng biên chế hiện có, theo các định mức chung mà chưa xem xét đến sự thay đổi của chế độ, chính sách, chỉ số giá cả biến động hàng năm và tính chất đặc thù của từng đơn vị dẫn đến việc đơn vị sử dụng nhiều các khoản chi không mang tính chất lương như: công tác phí, chi chuyên môn sẽ gặp khó khăn trong thực hiện tự chủ kinh phí. Mặt khác, việc giao kinh phí theo số lượng biên chế được giao sẽ làm cho các đơn vị không có động lực để tinh giản số biên chế được giao này, giữ nhiều biên chế để có nhiều kinh phí; Chính phủ cần kịp thời chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng và hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho phù hợp với điều kiện hiện nay và có hướng mở đối với từng ngành riêng biệt.

Thứ ba: nguồn kinh phí quản lý hành chính giao cho cơ quan thực hiện chế độ tự chủ: Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 và Thông tư 71 đều quy định nguồn kinh phí quản lý hành chính giao cho cơ quan thực hiện chế độ tự chủ gồm NSNN cấp, các khoản phí, lệ phí được để lại theo quy định và các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật vẫn không được quy định cụ

thể nên dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan nhà nước đã phát sinh các khoản tận thu nhưng không hạch toán vào nguồn thu của cơ quan.

Thứ tư: Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định rõ trách nhiệm của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải ban hành các tiêu chí đánh giá khối lượng, chất lượng công việc, thời gian giải quyết công việc… Song, sau nhiều năm thực hiện, hầu hết các bộ, địa phương chưa ban hành được hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do khó xác định quy mô khối lượng công việc của cơ quan, chưa có tiêu chí đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính. Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 thay vì tìm hướng khắc phục đã bỏ qua quy định này, chỉ quy định hàng năm tổ chức đánh giá , báo cáo kết quả thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính của bộ, ngành, địa phương gửi Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, việc đánh giá kỹ và cụ thể mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ sẽ khó khăn và thiếu chính xác. Do đó, Chính phủ Chỉ cần sớn chỉ đạo các cơ quan có liên quan xây dựng được bộ tiêu chí khung trong việc đánh giá chất lượng, hiệu quả hoàn thành công việc, tạo điều kiện cho các bộ, ngành xây dựng tiêu chí riêng, phù hợp với đặc thù công việc.

Thứ năm: kinh phí giao cho đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ bao gồm cả kinh phí thực hiện tự chủ và kinh phí không thực hiện tự chủ đã phần nào khiến cho công tác quản lý tài chính của các đơn vị phức tạp hơn . Phần kinh phí giao thực hiện tự chủ phải thực hiện quản lý theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và các tiêu chuẩn định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành, còn phần kinh phí không thực hiện tự chủ phải được thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước, do vậy đã ảnh hưởng ít nhiều đến mức độ tự chủ của đơn vị.

Thứ sáu: quyền tự chủ của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị còn hạn chế, do Quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan, đơn vị phải xây dựng đúng định mức chi không được vượt các tiêu chuẩn, định mức chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Kinh phí giao thực hiện tự chủ nhưng vẫn phải đảm bảo có chứng từ, hoá đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy định; vì vậy nhiều khoản chi (khoán văn phòng phẩm, khoán sử dụng điện

thoại tại công sở...) cơ quan thực hiện tự chủ đã thực hiện khoán cho (từng bộ phận, cán bộ) nhưng vẫn phải có hoá đơn để hợp thức hoá chứng từ quyết toán. Để đảm bảo quyền tự chủ, đồng thời gắn với trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong quản lý, sử dụng kinh phí và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nên giao cho đơn vị tự quyết định và chịu trách nhiệm. Ngoài các nội dung chi bắt buộc phải thực hiện theo chế độ quy định của Nhà nước như tiền lương, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương. Đối với các nội dung chi chưa có quy định của Nhà nước, Thủ trưởng đơn vị được phép quy định các mức chi phù hợp đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn và trên cơ sở kinh phí tự chủ được giao để giảm khối lượng công việc, giảm thủ tục hành chính không cần thiết; có thể xây dựng phương án khoán và thực hiện khoán đối với các nội dung chi thường xuyên của đơn vị, kể cả khoán quỹ tiền lương cho từng bộ phận trong cơ quan. Đối với kinh phí tiết kiệm được Thủ trưởng đơn vị được quyết định các nội dung chi, trong đó không hạn chế giới hạn 1,0 (một) lần mức chi bổ sung thu nhập cho CBCC theo lương so với ngạch, bậc, chức vụ như hiện nay.

Thứ bẩy: khi đã hoàn thiện các quy định về chế độ công chức, công vụ, xác định vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu công chức theo ngạch; mỗi cơ quan đã xác định rõ các vị trí việc làm, xác định đúng, đủ biên chế công chức cần tuyển dụng, thì không thực hiện cơ chế khoán biên chế, vì khi đó không còn tình trạng biên chế công chức “thừa” để “tiết kiệm” biên chế. Thực hiện xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ và hướng vào kiểm soát đầu ra.

Thứ tám: khi lộ trình cải cách chính sách tiền lương đã đạt mục tiêu thu nhập của cán bộ công chức từ lương đã đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động, thì không tiếp tục thực hiện cơ chế sử dụng kinh phí tiết kiệm để chi tăng thu nhập cho cán bộ, công chức. Đồng thời, khi chiến lược của các bộ, ngành được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2020 đã đạt mục tiêu về đầu tư cơ sở vật chất, về đào tạo nguồn nhân lực… thì sẽ chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý tài chính chung đối với tất cả các cơ quan hành chính nhà nước, không thực hiện cơ chế tài chính đặc thù đối với một số ngành như hiện nay.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/10/2023