Phương Hướng Hoàn Thiện Cơ Chế, Chính Sách Thu Hút Fdi.


Các cơ sở hạ tầng xL hội, hệ thống trường học, bệnh viện, các trung tâm văn hóa, thể thao... mặc dù đL được quan tâm đầu tư, song đang trong tình trạng quá tải, thiếu thốn về cơ sở vật chất, đầu tư dàn trải, chất lượng công trình thấp, nhanh xuống cấp cần được cân đối đầu tư trong những năm tới.

Nhiều vấn đề xL hội bức xúc chậm được khắc phục, tăng dân số cơ học ở tỉnh ngoài về Hà Nội chưa có xu hướng giảm, một số tệ nạn xL hội có chiều hướng gia tăng.

Việc lấn chiếm đất bất hợp pháp, đặc biệt là các khu vực đất công hiện nay khi quy hoạch đến, đều ở tình trạng khủng khoảng của việc chiếm dụng bất hợp pháp, điều tiết của nhà nước trong ngành kinh doanh bất động sản kém hiệu quả. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc sử dụng không đúng thẩm quyền, cùng sự yếu kém về mặt quản lý của chính quyền địa phương phường, xL, quận, huyện mà thành phố đL trao cho. Ngoài ra, việc di dân để giải phóng mặt bằng đối với nông dân hiện nay chưa được giải quyết thoả đáng, vì hầu hết các nông dân này, không phải là những người có kỹ năng làm việc và không thể

được chấp nhận trong các xí nghiệp sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghệ cao. Do sự quản lý và điều tiết của Hà Nội trong lĩnh vực bất động sản còn yếu, đL dẫn đến việc các công ty bất động sản nước ngoài vào hoạt động không lành mạnh. Điều tệ hại nhất, là các công ty này thay việc thực hiện các

đề án về đất đai xây dựng cho mình, lại tìm cách chuyển quyền sử dụng đất của mình cho các công ty khác để kiếm lời nhanh chóng hơn, do đó tạo ra sự

đầu cơ trên thị trường bất động sản, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả thu hút đầu tư.

Một nhân tố gây trở ngại lớn cho thu hút FDI là giá thuê đất tại Hà Nội hiện quá cao, cao hơn cả giá thuê đất ở Thành phố Hồ Chí Minh. Giá thuê đất cao dẫn đến chi phí đầu vào cao ảnh hưởng đến vốn đầu tư ban đầu, năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh do đó giảm sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Thành phố nên nghiên cứu và đưa ra cơ chế, chính sách hợp lý về giá đất, giá thuê đất, thời hạn thuê đất như thế nào để hấp dẫn các nhà đầu tư.


Bộ máy quản lý ở các cấp hiện nay còn cồng kềnh, chế độ trách nhiệm cá nhân trong quản lý điều hành còn chưa rõ ràng, thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu minh bạch, đL dẫn đến một bộ phận cán bộ có biểu hiện suy thoái, quan liêu, tham nhũng. Việc phân công, phân cấp giữa Trung ương và Hà Nội chưa hợp lý, cần có cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện cho Thủ đô Hà Nội đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước, để tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả và bền vững.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

3.2.2. Phương hướng thu hút FDI vào Hà Nội.

Để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nhằm thúc

Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001- 2010 - 21

đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, Hà Nội cần có cơ chế, chính sách phù hợp với

đặc thù của mình. Sau đây là một số phương hướng cụ thể:

- Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư tập trung vào hợp tác kinh tế với thủ đô các nước có nền kinh tế phát triển, nơi tập trung các tập

đoàn đầu tư quốc tế. Với vị thế là thủ đô của một quốc gia, Hà Nội có nhiều thuận lợi trong việc tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với thủ đô của các quốc gia khác trên thế giới. Hầu hết các tập đoàn, các công ty tầm cỡ quốc tế đều có trụ sở hoặc văn phòng đại diện nằm tại thủ đô của nước mình, vì đây thường là nơi khai sinh ra nó và hội tụ các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ huy, điều phối mọi hoạt động đến các chi nhánh trực thuộc ở

khắp các khu vực trên thế giới. Trong khu vực Châu á, các công ty, tập đoàn quốc tế nắm giữ những bí quyết công nghệ tiên tiến, có tiềm lực kinh tế lớn, có nhiều kinh nghiệm ĐTNN, phần lớn tập trung ở các quốc gia và lLnh thổ như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore là những nước có nền văn hoá có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Xây dựng mối quan hệ mật thiết với thủ đô các nước nói trên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc và vận động các công ty, tập đoàn quốc tế đầu tư vào Hà Nội. Bên cạnh việc ưu tiên thu hút đầu tư từ

các nước trong khu vực Châu á, cần khai thác triệt để nguồn vốn của các công ty, tập đoàn khác trên thế giới (ví dụ hiện nay khu vực Trung Cận Đông, Châu Phi đang có biến động chính trị nên các tập đoàn, công ty đầu tư quốc tế có cơ


sở sản xuất kinh doanh ở khu vực này muốn chuyển vốn đầu tư sang các khu vực khác có tình hình chính trị ổn định hơn, cần tranh thủ vận động họ đầu tư vào Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng). Thông qua ASEM, APEC, WTO Hà Nội có rất nhiều cơ hội để xúc tiến hợp tác với các quốc gia có nền kinh tế phát triển với thủ đô của họ về nhiều mặt, trong đó có lĩnh vực đầu tư.

- Thứ hai: Lựa chọn các đối tác đầu tư đáp ứng được với định hướng phát triển kinh tế bền vững và lâu dài của Hà Nội. Xuất phát từ đặc thù là Thủ đô của một nước, song quỹ đất để Hà Nội có thể dành cho việc xây dựng phát triển các khu công nghiệp về lâu dài bị hạn chế, do vậy việc lựa chọn đối tác

đầu tư cần được cân nhắc kỹ. Nên mở rộng cửa chào đón các tập đoàn, công ty tầm cỡ quốc tế, nắm trong tay các bí quyết công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, có khả năng đầu tư trang, thiết bị hiện đại, để không những tạo nên năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, mà còn giải quyết việc làm và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho một số lượng lớn cán bộ, công nhân. Để các đối tác mà ta lựa chọn bằng lòng đầu tư vào Hà Nội, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành cơ chế ưu đLi riêng dành cho các đối tác này.

- Thứ ba: Thành lập Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở ở Hà Nội, tăng cường thu hút các loại hình đầu tư này. Có ba lý do chính để thành phố thành lập Công viên Công nghệ cao kết hợp với kinh tế mở:

Một là, Với vị trí địa lý của mình, Việt Nam là cửa ngõ giúp các nước thuộc lưu vực sông Mê Kông thông thương với thế giới bên ngoài. Tại thời

điểm hiện nay, các “con rồng” Châu á (Thái Lan, Singapore, Malaysia) đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường phát triển ngành dịch vụ, một số lợi thế so sánh đang giảm dần, đồng thời tình hình chính trị có những biến động (Thái Lan, Inđônêxia), bởi vậy các nhà đầu tư muốn đầu tư cơ sở sản xuất công nghiệp công nghệ mới ra các nước khác trong khu vực có tình hình chính trị ổn định. Việc thành lập Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở ở Hà Nội, có thể đón nhận sự chuyển hướng đầu tư những cơ sở sản xuất công nghiệp công nghệ cao này.


Hai là, Mặc dù các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay chưa được lấp đầy nhưng nó sẽ tiếp tục phát triển trên địa bàn các huyện ngoại thành trong tương lai. Tuy nhiên hoạt động của nó mới chỉ hạn chế ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, chưa được mở rộng theo mô hình: Công nghệ cao kết hợp thương mại - du lịch - tài chính - ngân hàng - hạ tầng x= hội,...Công viên Công nghệ cao kết hợp kinh tế mở, được thiết lập theo mô hình trên và có cơ chế hoạt động thông thoáng sẽ hấp dẫn các nhà ĐTNN hơn.

Ba là, Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở ở Hà Nội, là địa bàn thích hợp cho việc thí điểm thực hiện cơ chế quản lý mới, theo dõi hoạt động của nó, chúng ta sẽ đúc kết được những kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp hơn, giúp cho phát triển các Khu công nghiệp của thành phố hiện nay. Cho đến nay, trên thế giới đL xuất hiện mô hình công viên công nghệ cao ở một số quốc gia (công viên công nghệ cao Tân Trúc Đài Loan, thung lũng Silic của Mỹ, công viên công nghệ cao Kulim của Malaysia, công viên khoa học Ox-phớt ở Anh,), thực chất đây là những Công viên Công nghệ cao thúc

đẩy sự ra đời của những tập đoàn xuyên quốc gia, tạo ra những bước đột biến mới về thành tựu khoa học công nghệ, đẩy nhanh nền công nghiệp của các nước phát triển.

Việc xây dựng Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở đòi hỏi có quĩ đất lớn, với quỹ đất như hiện nay thì Hà nội khó đáp ứng đòi hỏi này, do đó thành phố cần có sự kết hợp với các tỉnh lân cận để triển khai hình thức trên. Có thể xây dựng Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở theo trục Hà Nội - Bắc Ninh - Hưng Yên để tận dụng lợi thế gần sân bay quốc tế, sử dụng quốc lộ 1, quốc lộ 5 thông thương với các địa phương, với cảng biển và với các nước lân cận. Cũng có thể xây dựng theo trục Hà Nội - Thái Nguyên - Vĩnh Phúc, vì khu vực này có quỹ đất lớn, địa hình đa dạng thuận tiện cho việc phát triển nhiều loại hình đầu tư, đồng thời tác động đến sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các tỉnh miền núi phía Bắc.

- Thứ tư: Xây dựng vườn ươm công nghệ kỹ thuật cao, thu hút các nhà khoa học đầu ngành, thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ kỹ thuật mới.


Các viện nghiên cứu, các trường đại học của thành phố, đL có nhiều phát minh, sáng chế về khoa học & công nghệ trong nhiều năm qua. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của một nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Hiện tại, các đề tài nghiên cứu thường được thực hiện một cách độc lập, chưa có sự phối hợp giữa các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia giàu kinh nghiệm với các doanh nghiệp, vì vậy qui mô của đề tài còn hạn chế và chưa có nhiều tác dụng trong việc nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm. Những vườn ươm công nghệ kỹ thuật cao này sẽ đóng góp to lớn, trong việc chế tạo những sản phẩm hàng hoá mới có hàm lượng trí tuệ cao, trong việc nâng cao năng suất lao động đột biến, giảm tiêu thụ nguyên, nhiên vật liệu đến mức tối thiểu, phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội.

Mặc dầu việc xây dựng vườn ươm công nghệ kỹ thuật cao đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn (do phải trang bị hệ thống máy móc thiết bị cực kỳ tinh xảo, có

độ chính xác cực cao) và có thể gặp rủi ro, song một khi thành công, hiệu quả kinh tế mà nó mang lại có thể biến đổi tăng trưởng cả nền kinh tế.

Nguyên nhân chủ yếu khiến các nhà ĐTNN đến nay chưa muốn chuyển giao công nghệ kỹ thuật cao vào Hà Nội là do khả năng tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp ở thành phố còn thấp, thiếu cán bộ nghiên cứu và quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng. Xây dựng vườn ươm công nghệ kỹ thuật cao không những góp phần khắc phục nguyên nhân này mà còn để thực hiện các mục tiêu sau:

+ Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm mới, nhanh chóng áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa công nghệ cao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào các ngành công nghiệp truyền thống.

+ Nuôi dưỡng và tận dụng hết năng lực của đội ngũ các nhà Khoa học, cán bộ kỹ thuật, chuyên gia giàu kinh nghiệm để phát minh và ứng dụng công nghệ cao phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Giúp đỡ các doanh nghiệp trong công tác đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, có năng lực chuyên môn cao đủ để nắm bắt được kỹ thuật, công nghệ hiện đại.


+ Giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển giao công nghệ (ví dụ như giám sát kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, tính năng của máy móc, trang, thiết bị).

+ Là nơi phối hợp hoạt động giữa các nhà khoa học, các cán bộ kỹ thuật, các chuyên gia giàu kinh nghiệm với nhau để nghiên cứu, phát minh công nghệ tiên tiến, sáng chế các sản phẩm mới phù hợp với sự phát triển của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng. Đồng thời, các vườn ươm này cũng là địa

điểm để các nhà khoa học và doanh nghiệp phối hợp với nhau, trong việc ứng dụng, đưa công nghệ mới vào thực tế quá trình sản xuất.

- Thứ năm: Phát triển Hà Nội trở thành trung tâm tài chính và dịch vụ thương mại của toàn quốc. Là Thủ đô, là trung tâm Hành chính - Chính trị của quốc gia, Hà Nội cần phải thể hiện bộ mặt của mình sao cho ngang tầm với thủ đô của các nước trong khu vực và thế giới. Như trên đL phân tích, với đặc thù của mình, hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội trong tương lai phải theo mô hình Thương mại - Du lịch - Tài chính - Ngân hàng. Hiện tại, nguồn vốn FDI đổ vào Hà Nội chủ yếu phục vụ cho sản xuất công nghiệp nói chung, công nghệ thông dụng, mức độ hiện đại không nhiều. Nếu cứ tiếp tục phát triển theo hướng này, bên cạnh nguy cơ môi trường bị ô nhiểm còn làm cho Hà Nội bị quá tải về dân số, dẫn đến phát sinh nhiều khó khăn về giao thông, về đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho nhân dân (điện, nước, nhà ở) và về an ninh - trật tự xL hội. Trong tương lai, cần tăng cường thu hút FDI tập trung vào lĩnh vực tài chính, hệ thống dịch vụ thương mại, du lịch vì đó là thế mạnh của Thủ đô xét trên phương diện lợi thế so sánh. Dựa trên điều kiện địa lý, tự nhiên và kinh tế - xL hội, cần có kế hoạch phát triển lâu dài cho Hà Nội cụ thể như:

Một là, đề xuất với Chính phủ hướng mở rộng diện tích của Hà nội cho phù hợp với quy mô Thủ đô của một quốc gia. Đề xuất này không những nhằm mục đích về nhu cầu đất giải quyết sự quá tải về dân số, mà còn tạo điệu kiện

để qui hoạch thu hút đầu tư phát triển Thủ đô một cách hợp lý.


Hai là, cần qui hoạch lại Hà Nội theo hướng: Trung tâm thành phố là nơi

đặt các cơ quan quyền lực, các cơ quan ngoại giao, ngân hàng. Vành đai tiếp theo là hệ thống các tổ chức dịch vụ tài chính, các cơ sở thương mại trong và ngoài nước, các trung tâm văn hoá, thể thao phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân. Tiếp theo nữa là khối các trường Đại học, Viện nghiên cứu, bộ phận dịch vụ y tế, các khu đô thị. Vành đai ngoài cùng mới là địa điểm giành cho các khu chế xuất, khu công nghiệp, Công viên Công nghệ cao - kinh tế mở, Vườn ươm công nghệ kỹ thuật cao.

Ba là, nhanh chóng di chuyển các cơ sở sản xuất trong thành phố ra vành

đai phía ngoài theo qui hoạch trên với việc xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch (có nghĩa là các công ty này cần phải đầu tư lại để tiếp nhận chuyển giao, đổi mới công nghệ tiên tiến). Bốn là, tiến hành rà soát tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố,

cho giải thể, hoặc buộc những doanh nghiệp quá yếu kém phải tuyên bố phá sản theo luật phá sản. Cổ phần hoá các doanh nghiệp còn lại, cho phép mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán để tăng cường thu hút vốn đầu tư.

Xét trên nhiều phương diện, Hà Nội có lợi thế hơn các địa phương khác trong việc thu hút FDI. Tuy nhiên thực tế cho thấy trong thời gian qua, lượng FDI Hà Nội thu hút được vẫn xếp sau thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương (vốn thực hiện). Điều này chứng minh rằng: Để thu hút FDI đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc khai thác được các lợi thế so sánh của mình, Hà Nội còn phải có các cơ chế, chính sách phù hợp với xu hướng phát triển của thời

đại. Ta có thể thấy, nếu Singapore chỉ phát triển theo hướng bLi tập kết chứa hàng tái xuất như thời kỳ đầu những năm 60, thì sẽ không thể trở thành "sự thần kỳ”. Nhờ chính sách tập trung thu hút ĐTNN vào lĩnh vực tài chính, dịch vụ thương mại, ngân hàng khai thác được lợi thế so sánh, đL đưa Singapore trở thành nước xuất khẩu tư bản, là trung tâm tài chính của khu vực và được mệnh

danh "con Rồng Châu á" trên lĩnh vực phát triển kinh tế. Hà Nội có đủ điều kiện để học tập kinh nghiệm của Singapore, đưa Hà Nội trở thành trung tâm tài chính và dịch vụ thương mại của cả nước, nhằm đẩy nhanh nhịp độ tăng


trưởng kinh tế, thực hiện chủ trương xây dựng thủ đô văn minh, hiện đại, có tầm vóc ngang hàng với thủ đô của các nước trong khu vực.

3.2.3. Phương hướng hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút FDI.

Trong những năm qua, hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI của Việt Nam được liên tục sửa đổi, ban hành mới để đáp ứng yêu cầu thực tế và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Trước tình hình những biến động chính trị của thế giới và khu vực, cũng như việc Việt Nam tham gia WTO và phải cam kết thực hiện các điều kiện của tổ chức này, do đó trong thời gian tới Việt Nam và Hà Nội cần tuân thủ phương hướng sau trong quá trình hoàn thiện.

- Thứ nhất: Điều chỉnh những bất hợp lý không phù hợp với thực tế và những nguyên nhân gây nên bức xúc. Mục đích của việc hoàn thiện cơ chế, chính sách là nhằm tạo nên môi trường đầu tư có sức hấp dẫn hơn và giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn FDI thu được hiệu quả cao. Muốn đạt được mục

đích này, cần nhanh chóng điều chỉnh những bất hợp lý còn tồn tại bởi đó là nguyên nhân cản trở việc thu hút FDI và gây ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động.

- Thứ hai: Hoàn thiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế là xu hướng chung của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Mặc dù mỗi nước có chế độ chính trị khác nhau, song khi tham gia hội nhập, cần thiết phải tuân thủ những điều luật chung mà các bên đL xây dựng. Do mới chuyển đổi sang thể chế kinh tế thị trường và hệ thống kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, nên cả trên các văn bản lẫn trong thực tế vận hành còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Để khắc phục điều này, nhằm khai thác tốt hơn những mặt có lợi của toàn cầu hoá, khu vực hoá phục vụ cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, làm cơ sở để xây dựng một hệ thống kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thời kỳ đầu, khi mới chuyển đổi cơ chế và tham gia hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, việc ban hành cơ chế, chính sách thu hút FDI đặc biệt là Luật ĐTNN là nhằm mục đích thăm dò và tạo ra những tiền đề mang tính định

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 11/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí