Mục Tiêu Chủ Yếu Về Tăng Trưởng Kinh Tế - Xa Hội Đến 2010 Của Thủ


Cục Bản quyền cho biết: Luật của các nước quy định rất rõ ràng, còn của Việt Nam tuy có rất nhiều quy định nhưng là quy định chung chung. Tìm hiểu một vấn đề, có khi phải dẫn ra hàng vài chục văn bản, cái này chồng chéo cái kia, không theo thông lệ quốc tế, cán bộ thực thi chưa được đào tạo bài bản,...

* Vấn đề cấp phép và quản lý đầu tư.

Việc xét duyệt cấp giấy phép đầu tư ở Hà Nội còn nhiều bất cập, thời gian thẩm định dự án vẫn còn kéo dài, do còn quá nhiều cơ quan được quyền buộc các nhà đầu tư phải trình dự án để họ xem xét, nghiên cứu. Điển hình là việc để nhận được mặt bằng ngoài khu công nghiệp, nhà đầu tư phải chạy quanh từ Ban quản lý đến Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất, Sở Tài chính, Sở Quy hoạch,... rồi qua cấp phường, xL, cấp quận, huyện,... Tóm lại, là phải mất hàng tháng và qua hàng loạt "cửa ải", với 16 chữ ký và 15 con dấu mới xong. Việc thiếu đồng bộ trong khâu cấp phép đầu tư, đL làm chậm trễ việc thực hiện dự án và phía Việt Nam chuẩn bị dự án còn thiếu chặt chẽ, khi đàm phán phải sửa đổi bổ xung nhiều lần, dẫn đến mất nhiều thời gian dự án mới có thể triển khai đầu tư. Theo khảo sát của WB vào tháng 11/2003,

để thành lập một doanh nghiệp ở Việt Nam cần phải mất 63 ngày và phải mất một khoản chi phí 30% thu nhập GDP/đầu người. Như vậy, về thời gian thành lập doanh nghiệp, Việt Nam xếp thứ 3 từ dưới lên trong khu vực Đông Nam á, còn về mặt chi phí thì Việt Nam xếp hạng cuối cùng [34].

Nhìn chung, các quy định thủ tục hành chính về đầu tư, về xây dựng cơ

bản, về thuế và những quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,... thường xuyên thay đổi, không nhất quán, chồng chéo, gây mối hoài nghi cho các nhà

đầu tư nước ngoài ở Hà Nội về cơ chế, chính sách của Việt Nam. Tuy Chính phủ và lLnh đạo thành phố đL có nhiều biện pháp để cải cách hành chính, nhưng bộ máy hành chính của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn bị các tổ chức quốc tế đánh giá rất thấp. Theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), mức độ tham nhũng ở Việt Nam năm 2003 xếp thứ 90/130 nước, trong đó hối lộ mắc điện, nước, điện thoại xếp thứ 66, hối lộ để vay tín dụng xếp thứ 66, hối lộ liên quan đến cấp giấy phép xuất, nhập khẩu xếp thứ 66.


Trong khu vực Châu á, chỉ số tham nhũng của Việt Nam năm 2003 là 2,4 (chỉ số càng thấp tham nhũng càng nhiều) chỉ đứng trên Indonesia và tụt xa Trung Quốc (3,4 điểm), Malaysia (5,2 điểm), Singapore (9,4 điểm),... Đây là nguy cơ hàng đầu làm giảm sút uy tín quốc gia, là cội rễ cản trở thu hút vốn FDI và cất cánh nền kinh tế [34].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Vấn đề quản lý hoạt động các doanh nghiệp FDI. Nhiều doanh nghiệp liên doanh có vốn FDI thua lỗ trầm trọng khiến quyền lợi kinh tế - xL hội của Hà Nội bị ảnh hưởng. Nguyên nhân thua lỗ thì nhiều, song chủ yếu là do chi phí khấu hao tài sản cố định quá lớn (máy móc thiết bị bên nước ngoài đưa vào liên doanh được đánh giá quá cao so với giá thực tế). Ngoài ra có thể chính các

đối tác nước ngoài chủ động lỗ để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển hoá thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hiện tượng các liên doanh lần lượt báo lỗ (điển hình là Công ty Coca-Cola lỗ khoảng 100 tỷ VND, Công ty chế tạo biến thế ABB lỗ khoảng 100 tỷ VND,...), đL trả lời cho nhận định trên là đúng.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001- 2010 - 18

Quản lý và thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp tập trung: Nhìn chung hiện nay số dự án vào các khu công nghiệp còn ít, rất nhiều lô đất trong khu công nghiệp còn bị bỏ trống. Chẳng hạn tính đến 2003, khu công nghiệp Sài

Đồng B hiện mới có 11 dự án được cấp giấy phép, mới sử dụng 46% diện tích của khu công nghiệp, 54% diện tích còn lại đang bỏ trống. Khu công nghiệp Nội Bài Hà Nội mới có 8 dự án được cấp giấy phép, mới sử dụng 8 lô đất trên tổng số 45 lô theo quy hoạch. Các khu công nghiệp khác như khu công nghiệp Bắc Thăng Long, Sài Đồng A, khu công nghiệp Đài Tư,... tình hình cũng tương tự như vậy(26). Do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể khái quát như sau: Hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, tiến độ giải phóng mặt bằng, thi công xây dựng hạ tầng quá chậm ảnh hưởng lớn đến cơ hội đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án. Các chi phí điện, nước, dịch vụ kỹ thuật của khu công nghiệp còn quá cao, chưa kể còn quá nhiều các loại phí và lệ phí khác mà các nhà đầu tư phải gánh chịu khi tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá trên thị trường. Những nguyên nhân trên


chính là lời giải thích rõ ràng nhất cho câu hỏi vì sao các khu công nghiệp chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.

Trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, những vấn

đề liên quan tới chính sách tài chính, các hỗ trợ, ưu đLi đối với nhà đầu tư cần

được nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm thúc đẩy tính tích cực của các nhà đầu tư nước ngoài. Qua nghiên cứu trên cho thấy cơ chế, chính sách thu hút FDI của ta chưa tạo ra một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, chưa theo các thông lệ quốc tế nên chưa khai thác hết tiềm năng, thậm chí trở thành lực cản trong việc thu hút vốn FDI vào Hà Nội.

Tóm lại: Chương 2 của luận án đL tập trung phân tích đánh giá quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút FDI kể từ khi Nhà nước ban hành Luật

Đầu tư nước ngoài năm 1987 đến nay cho thấy: Thứ nhất, nhìn chung cơ chế, chính sách thu hút FDI của Việt nam được hoàn thiện theo hướng ngày một thông thoáng hơn, xoá bỏ phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đảm bảo minh bạch hơn và phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung có hiệu lực từ 1/7/2006

được đánh giá là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút FDI của Việt Nam, là cơ sở pháp lý mở ra cho nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam khi Việt Nam đL chính thức gia nhập tổ chức WTO. Tuy nhiên, để có thể triển khai thực hiện tốt cần phải có sự hoàn thiện đồng bộ của tất cả các lĩnh vực, các luật pháp liên quan trong hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI. Do vậy, để tăng cường thu hút FDI trong các năm tới yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI nhằm đảm bảo tính hấp dẫn có sức cạnh tranh cao, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

Thứ hai, sau gần 20 năm mở cửa, dòng vốn FDI đL tác động tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế xL hội ở Hà Nội, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần mở rộng nguồn thu tạo thế chủ động trong cân đối ngân sách, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, giảm bớt tỷ lệ nhập khẩu. Với những đóng góp to lớn của FDI

đối với nền kinh tế Việt Nam, được nghiên cứu cụ thể ở Hà Nội trong thời gian


qua, đL khẳng định quan điểm mở cửa hội nhập vào kinh tế toàn cầu của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Thứ ba, FDI mặc dù mới được thành phố quan tâm thu hút trên 10 năm nhưng với tiềm lực về vốn, công nghệ đL phát triển nhanh, ngày càng có vai trò lớn hơn trong cơ cấu kinh tế Thủ đô. Tuy nhiên, tốc độ thu hút vốn FDI trong những năm gần đây có xu hướng chậm lại. Các dự án đầu tư hầu hết có quy mô nhỏ, chưa tập trung vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, mà tập trung chủ yếu vẫn là các ngành gia công, lắp giáp. Mặc dù, Hà Nội có nhiều lợi thế về thu hút FDI hơn các địa phương khác, tuy số vốn đăng ký cao, song số vốn thực hiện thấp, nhiều dự án sau khi cấp phép không triển khai hoặc triển khai chậm (chiếm 1/4 số dự án đL cấp phép) [28], đặc biệt các dự án phát triển khu công nghiệp triển khai rất chậm gây lLng phí quỹ đất và

ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư ở Thủ đô. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới Hà Nội phải có những cơ chế, chính sách đặc thù cho việc thu hút FDI để phát triển kinh tế cho đúng với tầm Thủ đô của một quốc gia.

Thứ tư, do hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI tuy sau nhiều lần

điều chỉnh, sửa đổi đL có nhiều tiến bộ và hợp lý hơn, nhưng nhìn chung vẫn chưa hoàn chỉnh theo mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường

đầu tư, nhất là môi trường kinh doanh ở Hà Nội vẫn chưa có sức hấp dẫn đủ mạnh do còn thiếu đồng bộ và rủi ro, một số lợi thế so sánh đang mất dần, các chính sách về thuế, quản lý ngoại hối thường thay đổi quá nhanh, thị trường trong nước còn hạn hẹp, hạ tầng cơ sở còn yếu, đồng tiền Việt Nam chưa thể chuyển đổi, các giải pháp thu hút FDI trước đây đL kém hiệu lực. Hoạt động xúc tiến đầu tư chưa trở thành hoạt động chủ yếu của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư ở thành phố, chủ yếu các nhà đầu tư tự tìm đến. Công tác quy hoạch còn bất hợp lý, chính sách đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập,

đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên sâu và công nhân lành nghề còn hạn chế. Trước những bức xúc đặt ra, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ tất cả các lĩnh vực trong hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI, đảm bảo tính hấp dẫn, công bằng, minh bạch nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của thủ đô Hà Nội.


Chương 3


Phương hướng và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đến năm 2010

Kết quả thu hút FDI của Hà Nội tính từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ban hành đến nay, đạt được cao hơn so với các địa phương khác trong cả nước (chỉ xếp hạng sau thành phố Hồ Chí Minh). Tuy nhiên, nếu so sánh về lợi thế và tiềm năng thì kết quả thu hút FDI của Hà Nội thực sự chưa xứng tầm. Có rất nhiều nhân tố trong và ngoài nước đL làm ảnh hưởng đến kết quả thu hút FDI của Hà Nội. Một trong những nhân tố quan trọng nhất có thể điều chỉnh được,

đồng thời có tác động mạnh nhất đến kết quả thu hút FDI, đó chính là hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI. Tuy trong những năm qua hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI của Việt Nam luôn được sửa đổi, bổ sung, song cho đến nay nó vẫn còn nhiều bất cập. Trước sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO, cùng với những biến động về kinh tế-xL hội của các nước trong khu vực, việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thu hút FDI sao cho phù hợp với thực tế hiện nay (đặc biệt là phù hợp với các quy định của tổ chức WTO) của Việt Nam đang trở nên hết sức cấp bách. Việc xây dựng những chỉ tiêu phát triển kinh tế của Hà Nội được đặt ra trong thời gian tới, trong đó có xác định rõ vai trò của nguồn vốn FDI cho công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thủ đô.

3.1. Nhu cầu vốn phát triển kinh tế thủ đô Hà Nội tới 2010.

3.1.1. Mục tiêu chủ yếu về tăng trưởng kinh tế - xA hội đến 2010 của Thủ

đô Hà Nội.

Nghị quyết 15/NQ/TW, ngày 21/12/2000 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô trong giai đoạn 2002 - 2010, pháp lệnh Thủ

đô, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XIII đL chỉ rõ: “Bước vào thế kỷ 21, Thủ đô Hà Nội khẳng định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc

đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu thực hiện mục tiêu


chiến lược phát triển Thủ đô năm 2010”. Để xứng đáng là trái tim của cả nước,

đầu nLo chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Trong những năm tới, gắn với chuẩn bị 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố phải bảo đảm ổn định vững chắc về chính trị, trật tự an toàn xL hội, phát triển kinh tế - khoa học công nghệ - văn hoá - xL hội toàn diện, bền vững; xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất - kỹ thuật và xL hội của Thủ đô trở thành xL hội chủ nghĩa giàu đẹp, văn minh thanh lịch, hiện đại, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tích cực chuẩn bị tiền đề của kinh tế tri thức, phấn đấu trở thành một trung tâm ngày càng có uy tín ở khu vực, xứng đáng với danh hiệu “ Thủ đô anh hùng”[26].

Về phát triển kinh tế: Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường

định hướng XHCN, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế của kinh tế Thủ đô. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, củng cố, nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển đồng bộ. Đảm bảo kinh tế Thủ đô có nhịp độ tăng trưởng ổn định, vững chắc với cơ cấu hợp lý theo hướng ưu tiên phát triển các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, hiệu qủa kinh tế lớn, giải quyết nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ. Phấn đấu đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10-11%, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 14-15%/năm, dịch vụ đạt 10-10,5%/năm, nông nghiệp đạt 2,5- 3%/năm, xuất khẩu đạt 16-18%/năm. GDP của Hà Nội tăng 2,7 lần so với năm 2000. Thu nhập bình quân của nhân dân tăng 2 lần so với năm 2000[26].

Nhiệm vụ trọng tâm của Hà Nội trong giai đoạn tới là cơ cấu lại nền kinh tế, chú trọng đầu tư phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, hợp lý hoá cơ cấu nội bộ ngành và cơ cấu sản phẩm. Đối với công nghiệp, tập trung phát triển những ngành có thế mạnh như dịch vụ, công nghệ thông tin, sinh học. Giai đoạn 2006-2010, chủ trương tập trung xây dựng mối quan hệ chặt chẽ trong cơ cấu thống nhất của nền kinh tế, chú trọng phát triển những ngành


kinh tế chủ lực, từ đó chuyển dịch từng bước, vững chắc cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.

Phát triển mạnh lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp định hướng XHCN, tạo ra sự phát triển đồng bộ, bền vững. Đẩy mạnh cải cách khu vực kinh tế Nhà nước, chú trọng đổi mới cơ cấu

đầu tư để hình thành đồng bộ các loại thị trường. Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Tập trung đầu tư đổi mới đồng bộ thiết bị công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực hiện cải cách theo hướng phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước, đồng thời phát triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chỉ đạo xây dựng, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa dạng về sở hữu. Khuyến khích các hợp tác xL đa dạng hoá các hình thức hoạt động của mình. Tổ chức cuộc vận động sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân tăng cường sử dụng hàng hoá trong nước.

Cùng cả nước, tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể chủ

động tham gia các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế như AFTA,..., mở rộng hợp tác kinh tế song phương, đa phương. Phấn đấu đưa xuất khẩu trở thành bộ phận quan trọng của kinh tế Hà Nội. Nâng cao chất lượng và cơ cấu lại các nhóm hàng xuất khẩu, đưa tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm công nghiệp lên 80 - 85% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội vào năm 2010. Chú trọng những mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước, chế biến chuyên sâu với hàm lượng chất xám cao. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trên địa bàn bình quân 14% - 15%/năm giai đoạn 2001 - 2005 và 15% - 16%/năm giai đoạn 2006 - 2010; đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 2,9 - 3 tỷ USD/năm và đến năm 2010 đạt 6 - 7 tỷ USD/năm. Từng bước giảm tình trạng nhập siêu[26].

Mở mang và nâng cao chất lượng các ngành nghề dịch vụ một cách đa dạng nhằm phát huy thế mạnh của Hà Nội. Dịch vụ của Thủ đô không những


phải phục vụ một cách hiệu quả cho sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp trên địa bàn, mà còn phải góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế vùng trọng

điểm phía Bắc và kinh tế cả nước. Nâng cao chất lượng dịch vụ trong các lĩnh vực du lịch, thương mại, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, hàng không, bưu chính - viễn thông, kiểm toán, pháp luật, đối ngoại, và các lĩnh vực khác để

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xây dựng Hà Nội thành trung tâm thị trường hàng hoá bán buôn, xuất nhập khẩu, trung tâm tài chính hàng đầu và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Xây dựng thị trường chứng khoán hoạt động an toàn và có hiệu quả cao. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân ngành dịch vụ giai đoạn 2001 - 2005 đạt 9 - 10%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 10 - 10,5%/năm.

Tiếp tục phát triển công nghiệp có chọn lọc, đột phá vào những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao. Lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp chủ lực như cơ kim khí, điện - điện tử - công nghệ thông tin, dệt - may - giày, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng. Bố trí, sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp theo hướng lấp đầy và nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp mới, các khu công nghiệp vừa và nhỏ. Cải tạo, chuyển hướng sản xuất hoặc có kế hoạch, từng bước di chuyển các doanh nghiệp gây ô nhiễm đến khu vực ít dân cư. Đầu tư có chiều sâu, kết hợp với mở rộng các khu công nghiệp cũ ở ngoại thành còn khả năng về quỹ

đất (nhưng phải phù hợp với quy hoạch chung), chuyển giao một số cơ sở công nghiệp không phù hợp với điều kiện Thủ đô sang địa phương phụ cận.

Để phát huy các nguồn lực trong dân, thành phố chủ trương cho mở thêm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích họ đẩy mạnh sản xuất, nhằm tạo thêm nhiều việc làm, và sản phẩm hàng hoá. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân giai đoạn 2001-2010 đạt 14-15%/năm.

Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị, xây dựng nông thôn mới. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 11/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí