Những Công Trình Nghiên Cứu Về Sự Hỗ Trợ Của Nhà Nước Đối Với Nông Nghiệp, Nông Dân Trong Thực Hiện Cam Kết Gia Nhập Wto


Nhà nước hỗ trợ một phần và có cơ chế đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt đối với Chương trình xây dựng nông thôn mới, cần xây dựng khung cơ chế, chính sách hỗ trợ để tạo điều kiện thu hút các thành phần kinh tế, đa dạng hóa nguồn lực, huy động nội lực trong dân tập trung xây dựng nông thôn mới.

GS, TS Nguyễn Đình Kháng, trong bài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam” [45] đã luận giải từ lý luận của chủ nghĩa Mác đến thực tiễn cũng như khái quát lịch sử chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam để khẳng định tính tất yếu của sở hữu toàn dân về đất đai. Điều quan trọng cần giải quyết là làm thế nào trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, vẫn thực hiện được quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đất cho các chủ thể liên quan - trong đó có người nông dân có lợi ích một cách hài hòa.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu về sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân trong thực hiện cam kết gia nhập WTO

* Các sách chuyên khảo và tham khảo

Cuốn sách “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam” [5] trình bày tóm tắt những quy định và luật định liên quan của WTO, gồm các nội dung của Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định SPS và một số Hiệp định khác của WTO, nghiên cứu điển hình về bảo hộ nông nghiệp của một số nước và cơ chế tranh chấp trong WTO. Ngoài những nội dung đó, cuốn sách đánh giá chính sách nông nghiệp của Việt Nam và những hạn chế đối với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trên những nội dung: thuế đối với nông sản, các biện pháp phi thuế, hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu…

Lê Bộ Lĩnh trong cuốn “Vòng đàm phán Doha nội dung, tiến triển và những vấn đề đặt ra cho các nước đang phát triển” [46] đã phân tích 3 nội dung chính: bối cảnh ra đời, mục tiêu của vòng đàm phán, nội dung và tiến triển của vòng Doha trong phạm vi thời gian từ Hội nghị Doha đến kết thúc Hội nghị Giơnevơ. Trong đó, đề cập đến những tiến triển trong đàm phán của hàng nông sản, những kết quả và vấn đề của Hội nghị Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông (12/2005). Đưa ra phán đoán và thách thức của Vòng Doha và kiến nghị những điều chỉnh chính sách cần thiết để hội nhập thành công đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.


TS Nguyễn Từ trong cuốn sách “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam” [82] đã trình bày khái quát về hội nhập kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại khu vực và Hiệp định WTO về nông nghiệp; những ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua. Đồng thời đã có sự đánh giá tác động của gia nhập WTO đến nông nghiệp Việt Nam sau hơn 1 năm Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này. Từ đó, tác giả đã đề ra những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới.

GS, TS Hoàng Ngọc Hòa trong cuốn sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta” [39] đã làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH đất nước phải bắt đầu từ sự phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Do đó, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa công nhân với nông dân, giữa thành thị với nông thôn trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Tác giả đã chỉ ra trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết mối quan hệ đó như thế nào, đã đạt được những thành tựu như thế nào và còn những hạn chế, yếu kém ra sao. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi cũng như đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, nguy cơ do những hạn chế, yếu kém chủ quan và những tác động khách quan về điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và những tác động tiêu cực của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, thực hiện các cam kết gia nhập WTO nói riêng. Từ đó đã đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm giúp nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát huy những tiềm năng, lợi thế, vượt qua những khó khăn, thách thức để phát triển bền vững trong quá trình CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

PGS, TS Vũ Văn Phúc và PGS, TS Trần Thị Minh Châu trong “Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO” [57] đã đi vào phân tích hệ thống các chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Nhà nước ban hành kể từ khi đổi mới, đánh giá những tác dụng tích cực cũng như những hạn chế của của các chính sách. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một hệ thống các giải pháp đổi mới để giúp nông sân Việt Nam vững bước tiến vào thị trường thế giới.


Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 3

PGS, TS Nguyễn Cúc - TS Hoàng Văn Hoan trong “Chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO” [17] đã trình bày những luận cứ khoa học về chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện cam kết của WTO. Các tác giả đã tập trung phân tích thực trạng chính sách của Nà nước đối với nông dân Việt Nam từ đổi mới đến nay và đã có những đánh giá về các chính sách hiện hành. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách của nhà nước đối với nông dân trong điều kiện Việt Nam thực hiện các cam kết WTO giai đoạn 2007 - 2020.

TS Đoàn Xuân Thủy khi nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay” [69] đã phân tích, đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua so với yêu cầu của thông lệ quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo hướng vừa phù hợp với các cam kết quốc tế, vừa thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tạo cơ sở bền vững cho giải quyết vấn đề nông dân, nông thôn trong thời gian tới, đặc biệt là đến năm 2018 khi Việt Nam trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường đầy đủ.

* Các báo cáo, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ

Báo cáo “Đánh giá sự phù hợp của chính sách nông nghiệp Việt Nam với các qui định trong hiệp định khu vực và đa phương” [4] tăng cường sự hiểu biết về các chính sách nông nghiệp Việt Nam, từ đó xác định cụ thể những chính sách nào có thể tạo ra mâu thuẫn với qui định trong các hiệp định thương mại khu vực và đa phương. Mục tiêu tổng quát của báo cáo là đề xuất những sửa đổi về mặt chính sách, pháp luật phù hợp với những nghĩa vụ mà Việt Nam sẽ phải thực hiện với các đối tác thương mại của mình và đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp của đất nước.

Báo cáo “Gia nhập WTO: Liệu Việt Nam có giành được điều kiện có lợi cho phát triển?” [54] cho rằng, Việt Nam không những có thể sử dụng các hình thức và định mức hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo quy tắc de minimis là các nước đang phát triển được phép sử dụng tới 10% giá trị sản xuất cho trợ cấp (trừ phần thanh toán theo “hộp xanh” theo định mức trần và những trợ cấp cho nông dân nghèo thu nhập thấp và thiếu nguồn lực, không nằm trong cam kết cắt giảm), mà còn có thể sử dụng những hình thức hỗ trợ nội địa khác có lợi cho nông dân thu nhập thấp và thiếu nguồn lực mà không có tác động làm biến dạng thương mại.


Báo cáo của Oxfam“Vun trồng một tương lai no đủ” [55] đi sâu phân tích tình hình an ninh lương thực của Việt Nam, những vấn đề thực trạng nóng bỏng và đưa ra những đề xuất thay đổi chính sách nhằm cải thiện quyền, tiếng nói và lựa chọn cho người nông dân sản xuất quy mô nhỏ tại Việt Nam. Báo cáo đã phác họa một cách đầy đủ và sinh động cả thành công và khiếm khuyết trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Vai trò của người nông dân cần phải được nhìn nhận hơn. Với gần 8 triệu nông hộ nhỏ - chiếm hơn 80% tổng số nông hộ trên cả nước - đang sở hữu không đến nửa héc-ta đất, nông dân quy mô nhỏ và lĩnh vực nông nghiệp phải được coi là thành phần quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp của đất nước. Nếu Việt Nam muốn giải quyết được ba thách thức bao gồm sản xuất bền vững, công bằng và khả năng phục hồi thì đầu tư vào những mô hình sản xuất nhỏ bền vững chính là chìa khóa thành công. Để vun trồng một tương lai no đủ, Oxfam đã đưa ra năm đề xuất thay đổi chính sách: chấm dứt đói nghèo, suy dinh dưỡng và giải quyết căn bản các nguyên nhân gây mất an ninh lương thực; chấm dứt mọi hình thức loại trừ, gạt bỏ; tăng đầu tư của Nhà nước và tư nhân cho nông dân sản xuất quy mô nhỏ; đảm bảo quyền về đất đai của nông dân quy mô nhỏ; hỗ trợ các sáng kiến, tổ nhóm hợp tác và tiếng nói của người dân.

Đề tài “Gia nhập WTO và điều chỉnh chính sách trong ngành nông nghiệp Việt Nam”, [21] đã phân tích một cách chi tiết các quy định của WTO về thuế quan và trợ cấp trong ngành nông nghiệp cũng như một số vấn đề thương lượng đang đặt ra trong vòng đàm phán Doha cũng như phân tích quá trình điều chỉnh chính sách nông nghiệp của Việt Nam (chính sách thuế quan và trợ cấp) trong quá trình gia nhập WTO. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các yêu cầu và mục tiêu phát triển chính sách nông nghiệp của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số phương hướng và một số khuyến nghị để hoàn thiện chính sách nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong những năm tới đây.

- Đề tài “Chính sách đất đai ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO”, [59] trên cơ sở phân tích những thành công cũng như chỉ ra những hạn chế trong thực thi chính sách đất đai ở Việt Nam, đã kiến nghị chính sách đất đai nên tiếp tục thay đổi theo hướng sau: 1. Đổi mới chính sách đất đai phải phù hợp với thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, được thể hiện trên các mặt: lợi ích kinh tế của người dân, của doanh nghiệp và quản lý


hiệu quả của Nhà nước; 2. Đảm bảo tính nhất quán của quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai, đồng thời mở rộng quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất trên cơ sở hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích của từng tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; 3. Chính sách, pháp luật về đất đai phải mang tính chiến lược thể hiện tầm vóc của một chính sách lớn;

4. Chính sách đất đai phải xuất phát từ quy luật hình thành và phân phối địa tô của đất đai; 5. Quan hệ ruộng đất trong nông thôn nước ta hiện nay phải đảm bảo các yêu cầu: nông dân yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất và tạo điều kiện tập trung ruộng đất và ruộng đất thực sự trở thành một yếu tố kinh tế quan trọng vận động theo xu hướng kinh doanh sản xuất hàng hóa.

Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của WTO” [39] đã xác định cơ sở khoa học của việc đề xuất các chính sách và giải pháp bảo hộ sản xuất trong nước trên cơ sở tổng quan các chính sách và biện pháp bảo hộ sản xuất nông nghiệp một số nước trên thế giới và rút ra bài học áp dụng cho Việt Nam. Các tác giả cũng đi vào phân tích, đánh giá các chính sách bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước thời gian qua, những mặt làm được, chưa làm được và khả năng áp dụng các chính sách, biện pháp bảo hộ sản xuất nông nghiệp ở nước ta phù hợp với các cam kết quốc tế và các quy định của WTO. Từ đó, đã đề xuất các chính sách, biện pháp bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước phù với các cam kết quốc tế, quy định của WTO và đưa ra các giải pháp thực hiện.

Luận án “Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới” [43] đã xây dựng khung lý thuyết về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu, đưa nông sản thâm nhập vào thị trường toàn cầu, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản, của doanh nghiệp kinh doanh và tăng vị thế của đất nước. Luận án phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trước và sau gia nhập WTO, chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế. Hầu hết các chính sách Nhà nước đưa ra tác động đến thị trường nông sản là hợp lý và sát với những biến


động của thị trường, dựa trên bảo vệ lợi ích của đất nước, của các chủ thể kinh tế Việt Nam nhưng cũng đảm bảo các cam kết với WTO, không vi phạm các quy định của tổ chức này. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa đồng bộ, chưa theo kịp với những biến động của thị trường,... Từ đó, luận án phân tích những xu hướng mới của thị trường nông sản thế giới để từ đó đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.

* Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành và báo điện tử


TS. Phan Minh Ngọc trong bài báo “Gia nhập WTO tác động thế nào đến nông dân?” [51] để giảm bớt khó khăn cho người nông dân thời kỳ hậu WTO, một số giải pháp chính sách hỗ trợ khác mà Nhà nước có thể thực hiện là: cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo nghề, chăm sóc y tế, sức khỏe cho dân cư nông thôn để giúp giảm được rủi ro đói nghèo và giúp họ hòa nhập được vào lực lượng lao động công nghiệp (thành thị), nâng cao năng suất lao động, kể cả khi họ ở lại với nông thôn; cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn để tăng liên kết nông thôn - thành thị, thu hút đầu tư công nghiệp về nông thôn; tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp, khuyến nông, sản xuất và marketing sản phẩm mới để tăng thu nhập cho hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, đặc biệt từ các hoạt động sản xuất hướng xuất khẩu; trợ cấp cho những hộ nghèo các phương tiện để tham gia vào sản xuất, trong một thời gian ngắn. Những trợ cấp này được phép của WTO với điều kiện không vượt quá 10% tổng trị giá sản phẩm làm ra; cải thiện công tác tài chính nông thôn, cắt giảm thuế và các nghĩa vụ tài chính trả từ nông dân.

Nguyễn Huyền trong bài “Giúp nông dân hội nhập WTO” [44], cho rằng để giúp nông dân sản xuất hàng nông sản đáp ứng thị trường xuất khẩu trong thời hội nhập, cách tốt nhất là hỗ trợ cho nông dân thông tin thị trường cần thiết, đó là cách tốt nhất giúp cho nông dân trong thời hội nhập. Hiện nay, nông dân rất thiếu thông tin thị trường, không nắm được thông tin. Vậy họ cần sản xuất loại trái cây gì, nông sản gì, bán ở đâu, nước nào và lúc nào, loại gì và bán với giá nào? Những nông dân lên mạng truy cập thông tin làm kinh tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay?

Nguyễn Thiện trong bài báo “Làm gì để bảo vệ nhà nông khi gia nhập WTO?” [68], để giải quyết vấn đề ổn định chất lượng và số lượng hàng nông sản xuất khẩu và


thế mạnh của thương mại nông sản, Việt Nam cần giải quyết được những vấn đề gốc là đất đai và di dân. Quá trình dồn điền đổi thửa tại Việt Nam đang là một chiều hướng tốt; Tuy nhiên không phải là giải pháp duy nhất. Trong khuôn khổ những biện pháp xúc tiến thương mại hợp pháp, các chuyên gia khuyến cáo Việt Nam nên tăng cường việc hỗ trợ xúc tiến thương mại thông qua các hiệp hội hàng hoá.

Theo Đỗ Hồng Quân - tác giả bài báo “Đổi mới chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất nông nghiệp”, [58] sau 4 năm gia nhập WTO, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, cả khoa học kỹ thuật và tài chính nhằm nâng cao đời sống cho người nông dân,... nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tăng giảm thất thường. Tác giả đã đặt ra câu hỏi, phải chăng chính sách của chúng ta chưa đủ, hay còn nhiều bất cập, chưa tạo động lực cho phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, đồng thời đề xuất một số giải pháp để các chính sách phát huy được hiệu quả.

Bài báo “Chính sách hỗ trợ tài chính phát triển “tam nông” ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức” [47] đề cập đến những thành tựu của chính sách tài chính đã được thực hiện đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chỉ ra những thách thức, tồn tại cũng như đề ra một số giải pháp tài chính hỗ trợ “tam nông” sau khi Việt Nam gia nhập WTO.

Bài báo “5 năm gia nhập WTO: Nông nghiệp “nhận” được quá ít” [36] đã trích dẫn nhận định của ông Lưu Đức Khải - Trưởng ban Chính sách Nông nghiệp thuộc CIEM, ngành nông nghiệp vẫn nhận quá ít từ những chính sách do WTO đem lại, thậm chí gặp nhiều khó khăn do sức ép cạnh tranh. Còn theo ông Trương Đình Tuyển

- nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, để tránh những “cú sốc” cho ngành nông nghiệp, Việt Nam cần sớm đưa ra các biện pháp phòng ngừa khi phải cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản xuống thấp theo cam kết. Người nông dân phải được hỗ trợ để ngoài kiến thức nông học còn phải biết hợp tác, liên kết sản xuất, phối hợp với các tổ chức kinh doanh nông sản để cùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm khép kín.

Bài “Nông nghiệp Việt Nam hội nhập: Người nông dân “đứng mũi chịu sào” [63] cho thấy, trong cuộc chơi WTO, người nông dân Việt Nam đã giành được thắng lợi bước đầu nhưng phải trả giá rất đắt: thu nhập không cao, môi trường suy thoái nghiêm


trọng, hàng loạt rủi ro xuất hiện… Để phát huy được “sức mạnh Việt Nam”, điều cốt yếu là phải tập trung đầu tư đúng mức cho nông nghiệp nói chung.

Bài báo “Một chính sách nông nghiệp vì nông dân” [101] cho rằng, nguyên nhân làm người nông dân bỏ ruộng đồng thì có nhiều nhưng có lẽ điều dễ thấy nhất là vì thu nhập từ đồng đất không đủ nuôi sống bản thân họ. Đã đến lúc phải ngồi lại để xem xét một cách nghiêm túc rằng chúng ta đã làm gì để người nông dân được thể hiện rõ vai trò của mình trong hành trình đưa đất nước tiến lên CNH, HĐH. Thực tế này cho thấy, không thể ứng xử với nông dân bằng suy nghĩ chủ quan của những người làm chính sách. Một khi “chính sách nông nghiệp vì nông dân” được triển khai có hiệu quả sẽ giúp nông dân nâng cao tri thức, kỹ năng để nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống nông dân, giữ dân ở lại với đất.

Nguyễn Thái Nguyên trong bài viết “Chính sách và trách nhiệm với nông dân và nông thôn” [52], đã đến lúc chúng ta phải đánh giá lại một cách thật khoa học và thực tiễn những gì thuộc truyền thống của nền “văn minh lúa nước” phải phát huy và những gì cần phải thay đổi một cách căn bản, triệt để nền nông nghiệp của chúng ta. Tác giả cũng cho rằng việc Chính phủ giao cho Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) “điều hành xuất khẩu gạo” thì có nghĩa Bộ Nông nghiệp và Chính phủ đã khẳng định cơ chế độc quyền trong xuất khẩu gạo như thời chưa đổi mới. Không thể đặt trách nhiệm bảo đảm an ninh lương thực cho cả quốc gia này lên cái vai gầy của người nông dân được. Nếu biết vấn đề an ninh lương thực cho quốc gia là một vấn đề có tầm chiến lược thì trách nhiệm và chính sách đối với người nông dân và nông thôn phải rất khác.

1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan

đến htrca Nhà nước đối vi nông dân


Trên cơ sở tổng quan nội dung của các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân, bước đầu luận án rút ra một số kết luận sau:

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí