Nguyên Tắc Hỗ Trợ Của Nhà Nước Đối Với Nông Dân Việt Nam Sau Gia Nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới


cho các nước đang phát triển cũng như khai thác các hỗ trợ phù hợp với quy định của WTO mà Việt Nam chưa sử dụng. Chẳng hạn như:

- Nhà nước có thể chuyển số tiền hỗ trợ xuất khẩu trước đây sang để tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn (hệ thống thủy lợi, đê, kè, giao thông, điện, bưu chính, viễn thông, hệ thống chợ nông thôn...), nâng cao chất lượng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các hệ thống kho chứa trữ đạt tiêu chuẩn cao và kho đệm để dự trữ lúa, phát triển những vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn....

- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tiếp tục đầu tư cho công tác nghiên cứu, lai tạo, tuyển chọn, nhập khẩu giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện của từng vùng sinh thái.

- Tăng cường hỗ trợ khuyến nông, đào tạo, xây dựng chính sách hỗ trợ nông nghiệp, phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh.

- Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ làm cơ sở đảm bảo sản xuất nông nghiệp với năng suất - chất lượng - hiệu quảvà khả năng cạnh tranh cao. Xây dựng hệ thống khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả năng tiếp thu và làm chủ khoa học công nghệ hiện đại nước ngoài, tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

- Tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, hỗ trợ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật canh tác và giống mới vào sản xuất nhằm tăng sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu.

- Tăng mức cung cấp nguồn lực để cải tiến kỹ thuật cho cho giống cây trồng và giống vật nuôi, các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn, thông tin thị trường kịp thời.

- Hỗ trợ thông qua chương trình nghỉ dưỡng tài nguyên nhằm bảo vệ môi trường, hỗ trợ việc sản xuất ở các vùng có điều kiện bất lợi, hỗ trợ các khoản thanh toán trực tiếp cho người sản xuất.

- Hỗ trợ thông qua chương trình “chuyển mục đích sử dụng đất” để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế vùng, giảm bớt việc sản xuất các mặt hàng có lợi thế so sánh thấp, chẳng hạn như mía đường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.


- Tăng cường hỗ trợ đầu vào thay cho hỗ trợ đầu ra để hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất, loại bỏ được việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nông sản - là biện pháp hỗ trợ không phù hợp với quy định của WTO.

Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 5

2.1.3. Nguyên tắc hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

Trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, thực hiện các hoạt động hỗ trợ đối với các chủ thể kinh tế, trong đó có nông dân cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

2.1.3.1. Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân phải phù hợp với quy định và lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam

Cam kết mà một quốc gia tham gia theo nguyên tắc song phương và đa phương là giới hạn quốc tế cho các hành động của Nhà nước nói chung và trong hỗ trợ nông dân nói riêng. Mặc dù, WTO không có cơ quan cưỡng chế thi hành phán quyết của Hội đồng xử lý tranh chấp, nhưng áp lực trong WTO cũng như hành động trả đũa thương mại buộc chính phủ các nước phải chú ý đến các vùng cấm trong quy định của WTO. Hơn nữa, tuân thủ các quy định chung của WTO thì thương mại nông sản có lợi cho nông dân hơn là không tuân thủ. Chính vì vậy, giờ đây hầu hết các chính phủ đều cố gắng điều chỉnh các chính sách thương mại đối ngoại của mình theo các nguyên tắc của WTO.

Trong cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO, nông dân Việt Nam phải đối diện ngay với những quy định chặt chẽ của thế giới về an toàn thực phẩm, về chất lượng, về số lượng sản phẩm quy mô lớn và phải đảm bảo chính xác về thời gian giao hàng, về trợ giá cho nông dân, về mức thuế xuất nhập khẩu ... trong khi nông nghiệp nước ta chủ yếu là sản xuất phân tán, quy mô nhỏ lẻ, biệt lập năng suất, chất lượng thấp, nhiều thành viên của WTO có nền nông nghiệp sản xuất lớn phát triển ở trình độ cao. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh, ngoài việc tự bản thân nông dân phải nỗ lực vươn lên, còn cần có vai trò hỗ trợ của Nhà nước với sự tác động đồng bộ, có hiệu quả từ trong hoạch định chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển đến tạo môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thúc đẩy và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ này không được trái với những quy định quốc tế mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. Thí dụ, không được áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập WTO. Tuy


nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này, như đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm, riêng nước ta vẫn được phép hỗ trợ, nhưng chỉ duy trì ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Chỉ các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp mới được WTO cho phép được áp dụng không hạn chế...

Cho nên, những hình thức hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn và phải phù hợp với những quy định và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về nông nghiệp, vừa sát hợp với thực trạng và yêu cầu bức xúc đang đặt ra nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân và kinh tế nông thôn phát triển bền vững trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

2.1.3.2. Hỗ trợ nông dân phải phù hợp với thực tiễn, tạo lập được cơ sở cho nông dân xóa đói, giảm nghèo và phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững

Trên thực tế còn nhiều chính sách do Nhà nước ban hành chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn do chưa khảo sát, thu thập ý kiến đầy đủ từ cơ sở nên tính khả thi của chính sách chưa cao. Do vậy cần tăng cường tính thực tiễn trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối với nông dân, quy trình hoạch định chính sách cần được cải tiến để “đưa cuộc sống vào chính sách”.

Nếu như các hiệp hội doanh nghiệp hiện nay có tiếng nói rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách thì người nông dân, tuy rằng chiếm một tỷ lệ lớn nhưng lại hạn chế trong việc tham gia đóng góp ý kiến và đề xuất chính sách. Đây cũng là vấn đề mấu chốt trong đổi mới chính sách của Nhà nước đối với nông dân. Nhằm giúp nông dân thích nghi với chính sách mới, phải cung cấp cho họ đầy đủ thông tin về chính sách mới. Các chính sách phải đáng tin cậy và người nông dân phải được quyền đánh giá các cơ hội mới do những chính sách này tạo ra. Chính sách đối với nông dân đúng thì không chỉ thúc đẩy phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp và đô thị, cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính sách đối với nông dân cần được cụ thể hóa theo đặc điểm từng vùng, đối với tỉnh cần cụ thể hóa theo khu vực: đô thị hóa mạnh, phát triển làng nghề, công nghiệp nông thôn; phát triển nông nghiệp với các vùng chuyên canh, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị; những vùng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn…


2.1.3.3.Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân không phải bằng con đường cho không mà nhằm góp phần nâng cao nội lực và vị thế làm chủ của nông dân

Ở Việt Nam hiện nay đa số các hộ nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, nơi thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 4,2 triệu đồng/người/năm. Xóa đói giảm nghèo bền vững là mục đích chính trong việc nâng cao đời sống của bộ phận dân cư nghèo. Việt Nam đã được thế giới thừa nhận là đạt được “thành tích ngoạn mục” trong việc xóa đói giảm nghèo theo đánh giá của Tổ chức Nông Lương thế giới. Thành tích ấy có được là nhờ truyền thống thương yêu, đùm bọc, san sẻ với tình nghĩa đồng bào và cũng là do hiệu quả của những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, bộ phận dân cư nghèo ở nước ta vẫn rất đông, đáng chú ý là bộ phận tái nghèo cũng rất lớn. Bên cạnh đó, những hộ cận nghèo cũng rất dễ trở thành hộ nghèo; khiến cho công cuộc xóa đói giảm nghèo càng thêm khó khăn. Số liệu đăng tải trên www.laodongxahoionline.vn ngày 11/4/2013 cho biết, trong 2 thập kỷ qua, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống dưới 10% (theo chuẩn nghèo quốc gia). Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo lại không đồng đều, chưa bền vững. Nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%; khoảng cách chênh lệch giàu nghèo tăng từ 9,2 lần (năm 2010) lên khoảng 9,4-9,5 lần (năm 2012).

Chính sách hỗ trợ cho người nghèo thoát nghèo chủ yếu là chính sách hỗ trợ trực tiếp, người trong diện nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập, bảo hiểm y tế, cho vay vốn và nhiều lợi ích theo dạng “cho không” khác, đã làm cho không ít người dân “bị động hưởng lợi”, không muốn thoát nghèo, thậm chí phản ứng dữ dội nếu bị ra khỏi diện nghèo như nhận định được đưa ra tại phiên giải trình về phân bổ nguồn lực và cơ chế điều hành thực hiện chính sách giảm nghèo của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội ngày 24/9/2013. Việc người nghèo có biểu hiện ỷ lại vào các chương trình, chính sách hỗ trợ đã làm cho động lực tích cực bị triệt tiêu, do đó cần phải giảm những hỗ trợ trực tiếp “cho không” các hộ nghèo, thay vào đó là hỗ trợ có điều kiện. Rõ ràng, của cho đã quan trọng nhưng cách cho cũng quan trọng không kém. Việc hỗ trợ nông dân chỉ mang lại hiệu quả khi bản thân người nông dân ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình và Nhà nước chỉ nên hỗ trợ khi cần thiết. Sự ỷ lại này không chỉ gây lãng phí tiền của Nhà nước, mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của chính người nông dân. Như việc sản xuất không đúng quy trình, kỹ thuật, ngoài việc tốn hao chi phí mua thuốc dập dịch, còn làm ảnh hưởng đến năng suất, nguy hại đến môi


trường. Hoặc nếu hộ nghèo không muốn thoát nghèo mà cứ trông chờ vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì khó vươn lên để “đổi đời”. Và kéo theo đó là những hệ quả mà các thế hệ sau của hộ nghèo phải gánh chịu…

Trong mọi chính sách hỗ trợ thì nguyên lý “cho cần câu chứ không cho con cá” là đúng đắn và cần thiết. Hỗ trợ của Nhà nước là phải xuất phát từ nhu cầu thiết yếu thực tế nhất của những người nghèo, phát huy nội lực của chính người nghèo, đem lại cho họ cơ hội để tự họ thay đổi cuộc sống của chính mình.

2.1.4. Nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

2.1.4.1. Hỗ trợ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn phù hợp với xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường và tiềm năng, lợi thế của đất nước trên từng vùng, miền

Nông nghiệp và nông thôn chỉ phát triển mạnh mẽ, hiệu quả, bền vững và đời sống nông dân chỉ được cải thiện, nâng cao khi sản phẩm của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn có thị trường tiêu thụ thuận lợi với giá cả hợp lý. Muốn vậy, quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng những mặt hàng của lĩnh vực này phải luôn đảm bảo được sự cân đối hài hòa, hướng tới sản lượng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta. Để đạt được yêu cầu đó, Nhà nước phải là người tổ chức việc nghiên cứu, phân tích, dự báo xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về sản phẩm nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đồng thời tiến hành đánh giá chuẩn xác tiềm năng, lợi thế của đất nước về các mặt của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Trên cơ sở đó mà lập quy hoạch, kế hoạch định hướng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn một cách phù hợp. Mặt khác, phải luôn theo sát những động thái của thị trường để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và cơ cấu kinh tế đảm bảo cân đối quan hệ cung - cầu về sản phẩm nông nghiệp, kinh tế nông thôn sao cho vừa phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của đất nước trên mọi vùng, miền; vừa phù hợp với dung lượng và yêu cầu của thị trường cả về số lượng, chất lượng, chủng loại các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn.


2.1.4.2. Hỗ trợ xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn

Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng tính hiệu quả nhờ quy mô. Trong khi quy mô kinh tế ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc lộ những bất cập trong kết cấu hạ tầng nói chung, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn nói riêng làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và là một trong những điểm nghẽn tăng trưởng. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: Xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một khâu đột phá.

Để tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường cần có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phù hợp và đồng bộ như hệ thống thủy lợi, hệ thống đường giao thông, hệ thống điện nông thôn… Bên cạnh đó, sản phẩm nông nghiệp thường là những sản phẩm sinh học, dễ bị hư hỏng do tác động của môi trường, cho nên cần có đủ những điều kiện vật chất cần thiết sau thu hoạch để bảo quản và chế biến nông sản.

Tuy nhiên, nông dân là giai cấp yếu thế về kinh tế và chính trị trong xã hội, là bộ phận dân cư sở hữu ít nhất nguồn của cải được tích lũy trong xã hội nên năng lực tài chính của họ còn hạn chế. Bên cạnh đó, do đặc tính cư trú gắn liền với không gian sản xuất nông nghiệp nên cư dân nông thôn thường sống phân tán, hoạt động sản xuất nông nghiệp trải ra trong một không gian rộng. Vì thế, việc bản thân nông dân tự xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn là không thể do chi phí xây dựng các công trình này rất lớn, Nhà nước cần phải đứng ra gánh vác công việc này. Và kinh nghiệm thực tiễn cũng đã cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, nơi đó nông nghiệp phát triển thuận lợi và người nông dân có thu nhập tốt.

2.1.4.3. Hỗ trợ nông dân tiếp cận và sử dụng các nguồn lực đầu vào có hiệu quả

Đối với người làm nông nghiệp, đất đai là một trong những nguồn lực quý giá nhất. Để đảm bảo tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp, trước hết cần có chính sách thừa nhận và khẳng định tư cách làm chủ của người sản xuất đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt là đối với đất đai. Hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất đai


lâu dài, ổn định với nhiều quyền rộng rãi hơn. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất của nông dân được thực hiện thuận lợi. Chính sách đất đai phải từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách đất đai phải làm cho nông dân tích cực mở rộng quy mô sản xuất bằng nhiều cách như nhận khoán đất, thuê, đấu thầu đất, tự khai hoang... Hơn nữa, họ còn yên tâm đầu tư cải tạo đất để nâng cao năng suất cây trồng, đưa sản xuất nông nghiệp nước ta phát triển rất mạnh cả về sản lượng và năng suất, sản xuất nhiều loại nông sản với khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Trong điều kiện đất đai đã được giao cho người nông dân sử dụng ổn định, Nhà nước phải cung cấp dịch vụ quản lý đất để đảm bảo an toàn cho người sử dụng đất nông nghiệp.

Cùng với đất đất, vốn là một trong những nguồn lực quan trọng đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nhưng nông dân thường khó tiếp cận được với nguồn lực này. Thị trường tín dụng khó phát triển ở nông thôn do việc cung cấp tín dụng cho nông dân không hấp dẫn các tổ chức tín dụng vì mức độ rủi ro cao và chi phí lớn. Nếu không có tín dụng, nông dân không thể tổ chức sản xuất có hiệu quả. Hỗ trợ tín dụng cho nông dân nhằm đạt được 2 mục tiêu chính: chuyển vốn về cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo cơ chế cho vay thương mại với lãi suất phù hợp; khách hàng dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, thông qua việc đơn giản hoá thủ tục, giảm bớt những điều kiện kém lợi thế cho khách hàng… và có chính sách hỗ trợ nông dân khi gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng như thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, bù lãi suất hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ mua dự trữ nông sản...

Một nguồn lực khác cũng rất quan trọng đối với nền nông nghiệp hiện đại là khoa học - công nghệ (KH-CN). Với đặc điểm sản xuất ở quy mô nhỏ và phân tán, nông dân không thể tự mình tài trợ cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Do đó chuyển giao ứng dụng KH-CN là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân. Hỗ trợ KH-CN để phát triển nền nông nghiệp bền vững, trong đó tập trung đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam. Nhà nước cũng khuyến khích áp dụng những thành tựu mới về KH-CN vào một số lĩnh vực như giống, chăm sóc bảo vệ cây trồng, vật nuôi (trong đó đặc biệt quan tâm phát triển các


loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, các loại hình công nghệ phục vụ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch), tưới tiêu và cơ giới hóa, bảo quản và chế biến nông sản (nhất là chế biến nông sản sau thu hoạch, nâng cao giá trị và đa dạng hóa sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế).

Ngoài ra, thị trường máy móc nông nghiệp, vật tư nông nghiệp cũng phải được Nhà nước hỗ trợ về phương diện tổ chức, quản lý, tạo dựng cơ sở ban đầu để nông dân không phải chịu thiệt thòi trong giao dịch với đối tác cung ứng.

2.1.4.4. Hỗ trợ nông dân trong việc tiêu thụ sản phẩm gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tính chất hàng hoá của nông sản ngày càng phát triển. Ngay cả khi sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cung tự cấp, để đảm bảo có tiền chi tiêu cho nhiều nhu cầu cấp thiết của mọi người trong gia đình, người nông dân đã phải tìm cách tiêu thụ những sản phẩm do mình làm ra. Vì vậy tiêu thụ nông sản sao cho tốt, không chỉ để đáp ứng đúng yêu cầu của nông dân, mà còn là phương thức hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế nói chung. Việc tiêu thụ nông sản của nông dân không còn đơn giản là chuyện bán mua nhỏ lẻ ngoài chợ, mà đã cần đến vai trò của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ, hay có nhà máy mà nguyên liệu đầu vào là nông sản. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp loại này cũng luôn cần được nông dân bán nông sản cho để có hàng mà kinh doanh, có nguyên liệu chế biến, sản xuất hàng hoá công nghiệp. Thực tế vài ba chục năm nay, theo sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan và cần thiết gắn bó với việc tiêu thụ nông sản của nông dân. Vấn đề chỉ còn là ở chỗ làm sao cho quan hệ bán, mua nông sản giữa nông dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Chính vì thế, Nhà nước cần phải đóng vai trò cầu nối để tạo lập được mối liên kết bền vững giữa nông dân với doanh nghiệp trong tiêu thụ nông sản.

Nhà nước định hướng mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, duy trì phát triển quan hệ với thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường mới; tìm thị trường tiêu thụ lớn, ổn định, lâu dài cho những mặt hàng quan trọng như gạo, cao su, chè, cà phê, rau quả; thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nông sản.

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí