Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 2


thì nông nghiệp nước ta ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, yếu kém. Mặt khác, nông nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức không nhỏ đến từ tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động bất lợi của sự biến đổi thời tiết, khí hậu cùng những mặt trái của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa.

Các số liệu đã công bố cho thấy, sau gần 8 năm gia nhập WTO, GDP của ngành nông nghiệp không ngừng tăng trong giai đoạn 2000-2012, song tốc độ có xu hướng giảm đi. Giai đoạn 2000-2006 đạt 3,81%/năm nhưng giai đoạn 2007-2012 lại có xu hướng giảm nhẹ với con số 3,26%/năm và chỉ còn 2,81% năm 2013. Về thương mại ngành nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 5 năm trước gia nhập WTO đạt 18,4%/năm, cao hơn hẳn so với con số 15,6%/năm của 5 năm sau khi gia nhập WTO. Trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của lâm sản giảm mạnh, nhất từ 36,8%/năm giai đoạn trước xuống còn 13,1%/năm giai đoạn sau. Giá trị xuất khẩu thủy sản và nông sản giảm nhẹ hơn (thủy sản từ 13,1%/năm xuống 10,1%/năm và nông sản từ 17,3%/năm xuống 13,1%/năm) [12], [92].

Thực tế, sau gia nhập WTO đời sống nông dân có nhiều thay đổi nhưng nhiều hộ còn nghèo hơn cả trước khi gia nhập WTO. Tốc độ tăng về thu nhập của nông dân có xu hướng chững lại và không đều nhau giữa các khu vực, giảm dần so với các lĩnh vực kinh tế khác, số tiền tiết kiệm được của hộ gia đình ở nông thôn đạt rất thấp, chỉ vào khoảng 5 - 8 triệu đồng/hộ/năm, chiếm từ 10 - 15% tổng thu nhập của hộ. Đáng nói là, trong giai đoạn 2010 - 2012, tỷ lệ hộ nghèo không giảm và số hộ tái nghèo lại tăng lên [86]. Dường như một bộ phận không nhỏ người nông dân vẫn đang đứng “bên lề” trong thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới, sự hy sinh của họ chưa được đền đáp xứng đáng.

Hơn thế nữa, trong tiến trình hội nhập WTO, nhiều ưu đãi trong lĩnh vực nông nghiệp và các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nông sản không phù hợp WTO đã và đang phải bãi bỏ. Trong khi chúng ta vừa phải thích ứng với các hệ thống mới đang hình thành thì thách thức cạnh tranh lại đến ngay trên sân nhà. Các mặt hàng nông sản nước ngoài đã và đang xâm nhập thị trường trong nước, vì vậy việc cạnh tranh với nông sản nước ngoài ở thị trường trong nước cũng như cạnh tranh trong xuất khẩu sẽ ngày càng khó khăn hơn. Hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thực hiện cam kết WTO của nền nông nghiệp Việt Nam đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, cần có sự phối hợp đồng bộ của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và kể cả người nông dân thì mới đảm bảo thành công. Nhiều chuyên gia cho rằng: Thắng lợi


hay thất bại trong tiến trình hội nhập WTO phụ thuộc vào tầm nhìn, trước hết là tầm nhìn của các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và sau đó nhân tố then chốt là người nông dân. Sự phát triển của ngành nông nghiệp đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa “các nhà”. Đã đến lúc, nền nông nghiệp và người nông dân nước ta đang rất cần một cách nhìn, một tầm nhìn mới để không chỉ chống chọi được trước những mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế mà còn mạnh dần lên, thích ứng với những điều kiện, môi trường cạnh tranh mới.

Với những lý do trên đây, đề tài: “Htrca Nhà nước đối vi nông Vit Nam sau gia nhp WTO” được nghiên cứu sinh lựa chọn để nghiên cứu viết luận án tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mc tiêu: Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, đối chiếu với thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục hỗ trợ nông dân phù hợp với điều kiện đất nước và tương thích với các cam kết của Việt Nam trong WTO.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 2

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau khi gia nhập WTO.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO đến nay.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục hỗ trợ của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân trong giai đoạn hiện nay, giúp nông dân tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất nông sản, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho nông dân.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ các nông sản chủ yếu, phù hợp với điều kiện đất nước và đặc biệt là tương thích với các cam kết của Việt Nam trong WTO.


Ở góc độ nghiên cứu của luận án, các hỗ trợ được đề cập chủ yếu là hỗ trợ phát triển kinh tế, còn hỗ trợ xã hội như y tế, giáo dục... sẽ không đề cập đến hoặc rất ít. Do đó, đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO trong sản xuất và tiêu thụ các nông sản chủ yếu, phù hợp với điều kiện đất nước và đặc biệt là tương thích với các cam kết của Việt Nam trong WTO, góp phần tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất cũng như đời sống cho nông dân.

Một điều cần lưu ý đó là nông dân là nhóm xã hội có địa bàn sinh sống ở nông thôn và hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là sản xuất nông nghiệp nên tác động hỗ trợ của Nhà nước đối phát triển nông nghiệp, nông thôn có thể được coi là những hỗ trợ gián tiếp đối với nông dân bởi vì nông dân chính là đối tượng được thụ hưởng các hỗ trợ đó.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ nông sản ở các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long

+ Về thời gian: khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO (11/1/2007).

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan

điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nông dân.

- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp: trừu tượng hóa, phân tích - tổng hợp, lôgic kết hợp với lịch sử, thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh, đồng thời tiếp thu có chọn lọc một số kết quả của các công trình khoa học đã công bố trong quá trình nghiên cứu luận án.

5. Đóng góp về khoa học của luận án

- Đưa ra khái niệm về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO. Từ khái niệm hỗ trợ, luận án đã làm rõ nội dung, hình thức, nguyên tắc thực hiện hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO cũng như các tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện các hỗ trợ đó.

- Trên cơ nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia có điều kiện tương đồng trong thực hiện hỗ trợ đối với nông dân, luận án đã rút ra một số bài học bổ ích có giá


trị tham khảo nhằm thực hiện có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện mới.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thông qua đó làm rõ những vấn đề đặt ra cần giải quyết.

- Đề xuất quan điểm chủ yếu định hướng cho các giải pháp nhằm hoàn thiện sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở đó đưa ra một hệ thống giải pháp đồng bộ có căn cứ khoa học và có tính khả thi nhằm hỗ trợ nông dân trong điều kiện phải tuân thủ các cam kết về nông nghiệp của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung của luận án được kết cấu gồm 4 chương.


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU


Nông nghiệp là ngành ra đời sớm nhất trong các ngành kinh tế. Đồng thời là ngành rất nhạy cảm, còn nhiều bất đồng trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển. Vì lẽ đó, nghiên cứu về nông nghiệp, trong đó có nghiên cứu về phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế được nhiều tổ chức và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI


David Colman và Trevor Youg trong tác phẩm “Nguyên lý kinh tế nông nghiệp - thị trường và giá cả trong các nước đang phát triển” [16] đã phân tích nhiều nội dung liên quan đến phát triển nông nghiệp hàng hoá gắn với phúc lợi của nông dân ở các nước đang phát triển. Điểm nổi bật của tác phẩm là xem xét sự liên hệ, tác động tương quan giữa các chính sách đến thương mại nông sản trong điều kiện nền nông nghiệp hàng hoá. Cuốn sách đã nêu cách thức lượng hoá để xác định sự ảnh hưởng của các chính sách, phương pháp quản lý đến phát triển nông nghiệp và thương mại nông sản. Nội dung của cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho việc nghiên cứu giải quyết những vấn đề phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân của các nước đang phát triển.

Frank Elliss trong “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển” [34] đã khảo cứu công phu về chính sách nông nghiệp của các nước đang phát triển được tổng kết thông qua thực tiễn phát triển nông nghiệp của nhiều quốc gia. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề thời sự trong quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam như chính sách tác động đến đầu vào (như thuỷ lợi, phân bón, cơ giới hoá), tác động đến đầu ra (như chế biến, thương mại), tác động đến thương mại nông sản biên giới,...

Harry T.O Shima trong tác phẩm “Tăng trưởng kinh tế châu Á gió mùa” [60] đã luận giải có sức thuyết phục về vai trò của nền nông nghiệp lúa nước và “văn minh


cầm đũa” của các nước châu Á trong quá trình công nghiệp hoá, con đường phát triển nông nghiệp và nông thôn, các chính sách mà các quốc gia châu Á áp dụng có nhiều gợi mở về mặt lý luận và thực tiễn mà người nghiên cứu đề tài này quan tâm.

Hafiz A.Pasha và T.Palanivel trong “Chính sách và tăng trưởng vì người nghèo: Kinh nghiệm châu Á [56] cho rằng cần tăng chi tiêu công cho kinh tế nông thôn, nông dân để đa dạng hóa sản phẩm, cải cách chế độ thương mại và tiếp thị trong nước giúp cho việc giá cả trong nước được cải thiện. Theo các tác giả, chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp cần phải tập trung vào những điểm chủ yếu: Thứ nhất, đa dạng hóa nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa nông nghiệp sử dụng nhiều lao động và có giá trị cao; thứ hai, phát triển các doanh nghiệp nông thôn vừa và nhỏ về chế biến nông sản và cung cấp đầu vào cho nông nghiệp, mở rộng tiếp cận tín dụng nông thôn cho cả hoạt động nông nghiệp vầ phi nông nghiệp; thứ ba, đặt ưu tiên cao hơn về phân bổ nguồn lực công cho phát triển nông thôn, đầu tư vào đường, thủy lợi, điện khí hóa, nghiên cứu phát triển nông nghiệp và khuyến nông; thứ tư, phân bổ lại tài sản cho người nghèo thôn qua chính sách ruộng đất và các chương trình tín dụng vi mô nông thôn.

Tuy những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có nhiều gợi mở tốt, nhưng việc vận dụng nó không dễ dàng bởi đặc thù của Việt Nam, đặt ra trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu thấu đáo và vận dụng phù hợp.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC


Hiện nay trong nước chưa có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Việt Nam trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO mặc dù xung quanh đề tài này có khá nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và nhiều tác giả được xuất bản, đăng tải trên tạp chí và các phương tiện khác nhau.

1.2.1. Những nghiên cứu liên quan đến chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân trong hội nhập kinh tế quốc tế

* Sách tham khảo và chuyên khảo

TS. Đặng Kim Sơn trong cuốn sách “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - 20 năm

đổi mới và phát triển” [61] cho rằng, qua 20 mươi năm đổi mới, thắng lợi rõ rệt nhất


của nông nghiệp Việt Nam là tạo ra và duy trì được một quá trình tăng trưởng sản xuất với tốc độ nhanh, trong thời gian dài; đã đảm bảo an ninh lương thực; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tăng nhanh xuất khẩu. Tuy vậy, quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn vẫn còn một số yếu kém, tồn tại như: chuyển dịch cơ cấu chậm, sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, tăng trưởng theo chiều rộng, chất lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh nhiều loại nông sản còn thấp... Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới nông nghiệp, nông thôn nước ta tiến những bước vững chắc, cần quan tâm giải quyết một số vấn đề đặt ra: xác định mối quan hệ nông nghiệp - công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, đầu tư thích đáng cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển phải phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường chủ trương chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, phải đổi mới căn bản quản lý nhà nước.

TS Trịnh Thị Ái Hoa trong cuốn “Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” [41] đã đi vào phân tích những chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam từ năm 1989, thực trạng tác động của các chính sách đồng thời cũng đã đưa ra những đánh giá chung về chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Qua đó, tác giả đưa ra những quan điểm, giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông sản hiện hành, trong đó có tính đến những cam kết gia nhập WTO.

TS Đặng Kim Sơn trong “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau” [62] đã khẳng định, trong gần 30 năm đổi mới ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò rất quan trọng, đã đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên. Song đó cũng lại là đối tượng chậm phát triển nhất trong nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún. Thu nhập của người nông dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị. Người nông dân không có nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu của sự phát triển, các dịch vụ xã hội. Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc hậu. Từ đó, tác giả kiến nghị những chính sách với nông dân, nông nghiệp, nông thôn như hỗ trợ đất đai, vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, giúp nông dân quy hoạch sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác và có thể phát triển kinh tế trang trại hoặc nông hộ lớn.

GS, TS Vũ Dũng trong cuốn“Cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường” [22] đã chỉ ra các nhóm nông dân yếu


thế do hạn chế về năng lực sản xuất như thiếu vốn, thiếu đất, thiếu sức lao động, thiếu kiến thức sản xuất… là những nhóm rất khó khăn trong việc thích ứng với cơ chế thị trường hiện nay. Sự thích ứng này là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu giúp họ phát triển sản xuất và tổ chức cuộc sống gia đình, giúp vượt qua những trở ngại, khó khăn để hòa nhập và tồn tại một cách có hiệu quả. Các nhóm này rất cần được sự giúp đỡ, quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách. Cuốn sách cũng đã đề cập tới hiểu biết của nông dân về các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn; tác động của các chính sách đến nông dân yếu thế; những khó khăn trở ngại của việc thực hiện các chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế. Từ đó đề ra các giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ nông dân yếu thế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở khu vực nông thôn giai đoạn 2011-2020.

* Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành và báo điện tử

Bài báo “Hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của GS, TS Hoàng Ngọc Hòa [38]. Bài báo đã nêu lên sự cần thiết khách quan và những căn cứ xuất phát của việc hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn đồng thời đã đưa ra một số giải pháp thực hiện hỗ trợ cho “tam nông” mang tính khả thi.

Bài báo “Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất - thị trường” của GS, TS Võ Tòng Xuân [90]. Sau 25 năm đổi mới nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu, song đời sống người nông dân - những người trực tiếp làm ra hạt thóc vẫn còn nhiều điều trăn trở. Tác giả cũng đã chỉ ra nguyên nhân khó khăn, vướng mắc của người nông dân sản xuất lúa hiện nay, làm thế nào để người trồng lúa có lãi, nâng cao thu nhập, ổn định được cuộc sống, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực. Từ đó, dưới góc nhìn từ sản xuất - thị trường, tác giả bài báo đề xuất một số giải pháp để ngành nông nghiệp phải đổi mới nhằm tăng trưởng nhanh và hiện đại hơn các nước trong khu vực, người nông dân cũng cần đổi mới ra sao để tăng tính cạnh tranh.

Chu Thanh Vân trong “Tạo cơ chế thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho “tam nông” phát triển bền vững” [85] cho rằng, để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, việc phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phải được triển khai đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2022