Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại


khác không được vượt quá 50% giá trị vốn cấp 1, quỹ dự phòng tài chính không được vượt quá 1,25% tổng tài sản có,...

Các khoản phải trừ khi tính vốn tự có của ngân hàng là: 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định, 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định.

Tài sản có rủi ro là những tổng giá trị tài sản có được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản có tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ. Như vậy, tài sản có theo mức độ rủi ro là tích số của giá trị tài sản có và hệ số rủi ro tương ứng của tài sản có quy định. Tài sản có tương ứng với cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro được tính bằng tích số của giá trị cam kết ngoại bảng với hệ số chuyển đổi quy định [18].

RWA là tổng tài sản sau khi được điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Như vậy, tài sản có rủi ro sẽ được tính theo công thức:

Tài sản có rủi ro = RWA rủi ro tín dụng + RWA rủi ro thị trường + RWA rủi ro hoạt động.



Vốn tự có



CAR

=

RWA rủi RWA rủi ro RWA rủi ro

ro tín dụng + thị trường + hoạt động

x 100

(2.26)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - 7

Khi Basel II được ban hành thì CAR của các NHTM quy định tối thiểu ở mức 8%.

* Tỷ lệ nợ quá hạn


Tỷ lệ nợ quá hạn


Nợ quá hạn

x 100

(2.27)

=

Tổng dư nợ cho vay

Nợ quá hạn là những khoản nợ phát sinh khi khoản vay đến hạn nhưng khách hàng không hoàn trả được toàn bộ hay một phần tiền gốc hoặc lãi. Nợ quá hạn của ngân hàng phát sinh là chuyện không thể tránh, tuy nhiên các ngân hàng cần phải có những biện pháp để hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn vượt quá ngưỡng cho phép, từ đó dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh tình hình nợ quá hạn của NHTM, phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn nhưng ngân hàng chưa thu hồi lại được. Nói cách khác, tỷ lệ nợ quá hạn cho biết cứ 100 đồng dư nợ hiện hành của ngân hàng có bao nhiêu


đồng đã quá hạn.Từ đó cho thấy khả năng quản lý tín dụng của NHTM trong khâu cho vay và đôn đốc thu hồi nợ của NHTM đó với các khoản cho vay đã hiệu quả hay chưa. Chỉ tiêu đồng thời phản ánh chất lượng tín dụng và rủi ro tín dụng của NHTM được xem xét. Chỉ tiêu cao cho thấy rằng chất lượng tín dụng của NHTM kém, hay tỷ lệ nợ quá hạn lớn cho thấy rằng khả năng quản lý tín dụng của NHTM đang rất thấp.

* Tỷ lệ nợ xấu


Tỷ lệ nợ xấu


Tổng nợ xấu

x 100

(2.28)

=

Tổng dư nợ cho vay

Tổng nợ xấu của NHTM bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 theo cách phân loại danh mục cho vay của ngân hàng thương mại. Trong đó, nhóm 3 bao gồm các khoản nợ dưới tiêu chuẩn (các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu; các khoản nợ được miễn hoặc giảm do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng); nhóm 4- nợ nghi ngờ- cấu tạo bởi các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu, hay là các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; và nhóm 5 là nhóm nợ có khả năng mất vốn (bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trả lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; và các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý).

Tỷ lệ nợ xấu của một NHTM đánh giá chất lượng về tín dụng của NHTM đó. Với 100 đồng dư nợ của ngân hàng có bao nhiêu đồng là nợ xấu sẽ được phản ánh qua tỷ lệ nợ xấu. Chỉ tiêu càng cao cho thấy rằng chất lượng tín dụng của NHTM kém, và ngược lại.

* Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu (LLR)


LLR


Quỹ dự phòng rủi ro

x 100

(2.29)

=

Tổng nợ xấu


Các NHTM phải đối mặt với rủi ro tiềm năng cao và đa dạng, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động trong cấp tín dụng. Để giảm thiểu rủi ro, các NHTM phải thực hiện trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo quy định của ngân hàng trung ương tại nước sở tại. LLR cho thấy khi xảy ra rủi ro với các khoản nợ xấu, ngân hàng có bao nhiêu khả năng để bù đắp rủi ro đó. Để đảm bảo tính an toàn trong quá trình hoạt động, LLR của các NHTM đòi hỏi mức tối thiểu là 100%.


Tổn thất cho vay


Mức độ tổn thất

=


(2.30)




* Mức độ tổn thất



Cho vay

x 100

Tổn thất cho vay (tổn thất tín dụng) được xác định theo công thức:

Tổn thất tín dụng = nợ dưới chuẩn x 0.2+ nợ nghi ngờ x 0.5+ nợ mất vốn x 1 Tổn thất tín dụng là cơ sở để xác định số trích lập dự phòng rủi ro và khả

năng thanh toán của ngân hàng.

Các khoản nợ quá hạn trong thời gian quá dài (từ 6 tháng trở lên) có khả năng gây ra tổn thất cho vay. Tổn thất tín dụng cho vay đồng nghĩa với việc giá trị mất trong hoạt động cho vay của NHTM.

Mức độ tổn thất của NHTM trong tín dụng cho thấy mức độ tổn thất tín dụng NHTM gặp phải là bao nhiêu khi xét trên tổng số cho vay của NHTM trong một thời kỳ. Chỉ tiêu càng cao cho thấy rằng NHTM sẽ phải chịu mức độ tổn thất càng lớn, và ngược lại sẽ giảm khi chỉ tiêu thấp.

1.2.4.3. Nhóm chỉ tiêu định tính

Song song với nhóm chỉ tiêu định lượng ở trên, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM không thể thiếu nhóm chỉ tiêu định tính. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh uy tín, thương hiệu quả ngân hàng với khách hàng, với nền kinh tế. Hai chỉ tiêu đại diện cho nhóm này bao gồm:

* Giải thưởng thương hiệu: Cho một cái nhìn tổng quát về uy tín của ngân hàng trên nền kinh tế. Những giải thưởng này cho thấy rằng ngân hàng đó đã đạt được thành quả như thế nào trong suốt quá trình hoạt động của mình.


* Giải thưởng về công nghệ, sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Các NHTM hoạt động chủ yếu và thường xuyên là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ của mình tới khách hàng, từ đó đòi hỏi sự gia tăng chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ này của họ trong quá trình cạnh tranh. Những giải thưởng về công nghệ, sản phẩm dịch vụ thể hiện sự nỗ lực phát triển của ngân hàng đó trong quá trình hoạt động, nâng cao được hiệu quả kinh doanh của mình qua sự nâng cao về chất lượng sản phẩm dịch vụ, giảm phí hoạt động của mình..

1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

Trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, để tồn tại và phát triển thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một yếu tố cân nhắc hàng đầu của NHTM. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, do vậy bản thân NHTM cần phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đó, xác định được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến hiệu quả kinh doanh của mình. Qua đó, NHTM mới có thể đưa ra những quyết định để hạn chế những rủi ro trong hoạt động, đồng thời gia tăng được việc bảo toàn vốn, gia tăng thu nhập và lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của mình. Qua một thời gian dài nghiên cứu, nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của NHTM được chia thành hai nhóm chính, là: nhóm nhân tố khách quan và nhóm nhân tố chủ quan.

1.2.5.1. Các nhân tố khách quan

* Môi trường kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước

Ngân hàng thương mại là một chủ thể trung gian tài chính thực hiện hai hoạt động chủ yếu là huy động và phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế, có mối quan hệ kinh tế với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế, nên trong quá trình hoạt động các NHTM không thể tách rời được với môi trường kinh tế, chính trị và xã hội. Hoạt động của các NHTM không chỉ chịu ảnh hưởng bởi yếu tố môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong nước mà còn bị ảnh hưởng bởi môi trường quốc tế. Môi trường quốc tế ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư nước ngoài cũng như thị trường tiền tệ quốc tế.

Môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo một môi trường hoạt động thuận lợi cho các NHTM, đảm bảo cho khả năng huy động và phân bổ nguồn


vốn của NHTM được diễn ra dễ dàng với một mức nợ xấu thấp. Ngược lại, trong một môi trường kinh tế, chính trị và xã hội bất ổn sẽ là cho hoạt động của các NHTM dễ phải đối mặt với một tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng cung ứng vốn ra trong nền kinh tế giảm mạnh.

Môi trường kinh tế, chính trị và xã hội sẽ tác động tới niềm tin của dân cư, giá trị của đồng tiền, ảnh hưởng tới điều hành chính sách của chính phủ, tới tâm lý của nhà đầu tư. Từ đây tác động tới các hoạt động về gửi tiền gửi tiết kiểm tại ngân hàng của người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động, nhu cầu tiêu dùng và thị trường hàng hóa. Như vậy môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ giúp ngân hàng mở rộng cung ứng dịch vụ (thanh toán, bảo lãnh, tư vấn,...) và nâng cao được chất lượng tín dụng của mình. Ngược lại, khi môi trường bất ổn sẽ gây khó khăn lên cho các tác nhân của nền kinh tế, hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ bị sụt giảm nghiêm trọng.

* Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý được cấu tạo bởi hệ thống luật, các văn bản dưới luật, việc chấp hành luật cũng như trình độ dân trí. Điều đó cho thấy rằng môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành nền kinh tế thị trường. Một môi trường pháp lý hoàn thiện cho phép phát triển kinh tế thị trường mà không phải đối mặt với bất cứ một rào cản lớn nào. Tuy nhiên, đây là một điểm yếu của Việt Nam, một thị trường đang phát triển với một môi trường pháp lý chưa được hoàn thiện, đầy đủ. Do đó, để tạo ra đường cơ sở cho hệ thống NHTM có thể phát triển mạnh và ổn định, Việt Nam cần phải tạo ra một môi trường pháp lý hoàn chỉnh để qua đó có thể giúp NHTM nói riêng, các chủ thể trong nền kinh tế nói chung giải quyết được những mâu thuẫn trong quá trình hoạt động của mình.

Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, tiền tệ, do vậy phải chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ từ nhiều phía: Ngân hàng trung ương, Bộ, ngành có liên quan. Các yếu tố được kiểm soát của NHTM như: cạnh tranh, phá sản, sáp nhập, cơ cấu tổ chức, nợ xấu,... Bên cạnh việc chịu sự kiểm soát, NHTM còn phải đảm bảo tuân thủ theo pháp luật và chính sách trong hoạt động kinh doanh của mình, về: đảm bảo thanh khoản, tỷ lệ an toàn vốn, hoạt động


tiền gửi, hoạt động cho vay, và thanh toán,.... Từ đây cho thấy rằng môi trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng chiến lược cũng như thực thi hoạt động kinh doanh của các NHTM.

* Mức độ phát triển của nền kinh tế

Hoạt động của NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự phát triển của nền kinh tế thế giới, khu vực và của từng quốc gia. Đặc biệt sự ảnh hưởng được thể hiện qua sự phát triển của thị trường chứng khoán và sự tăng tưởng của GDP.

Khi một quốc gia có sự tăng trưởng GDP lớn cho thấy rằng nguồn vốn các chủ thể có thể huy động và cung ứng trên thị trường sẽ gia tăng theo. Với tư cách là một trung gian tài chính trên thị trường, đặt trong bối cảnh đó sẽ kéo theo hiệu quả kinh doanh của các NHTM gia tăng cùng chiều. Ngược lại khi các nước có sự suy thoái về kinh tế, sụt giảm về GDP sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh tín dụng và thanh toán của NHTM giảm, dẫn tới sự giảm trong hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng.

Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán là một trong những kênh giúp các ngân hàng thương mại có thể gia tăng được nguồn vốn huy động của mình trong quá tình hoạt động. Khi thị trường chứng khoán phát triển tạo tiền đề cho các ngân hàng thương mại dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn của các chủ thể. Ngược lại, khi thị trường chứng khoán kém phát triển hoặc có dấu hiệu sụt giảm, hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng cũng theo đó xấu đi.

* Thu nhập của người dân

Một trong những nguồn huy động vốn đang có xu hướng gia tăng của các NHTM đến từ người dân nhỏ lẻ. Khi những chủ thể này có thu nhập gia tăng đồng nghĩa với sự gia tăng về nhu cầu dịch vụ về tiền gửi, về thanh toán. Từ đó tạo điều kiện cho các NHTM đẩy mạnh cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cung ứng cho những người dân, hộ gia đình trong thị trường. Tuy nhiên, khi nguồn thu nhập của bộ phận này giảm xuống sẽ dẫn tới một sự khó khăn trong huy động vốn của các NHTM, ảnh hưởng tới khả năng cung ứng vốn của ngân hàng ra trên thị trường. Mặc dù huy động nguồn vốn từ hộ gia đình, người dân không phải là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, nhưng đây là một trong những nguồn huy động chính của các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước.


* Tập quán xã hội

Hoạt động của NHTM gắn liền với niềm tin của người dân, gắn liền với sự đa dạng về đối tượng khách hàng. Có thể nói rằng, tập quán xã hội của từng quốc gia, khu vực sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng. Thói quen sử dụng các dịch vụ công nghệ cao của ngân hàng (thanh toán không dùng tiền mặt) và vay phục vụ tiêu dùng đã trở nên phổ biến tại các quốc gia phát triển, nhưng những sản phẩm và dịch vụ này còn khác mới là tại các quốc gia đang và chậm phát triển. Thêm vào đó, người dân tại các nước đang và chậm phát triển còn khá lạ với những dịch vụ công nghệ cao. Ví dụ tại Việt Nam, phần lớn dân số sống ở nông thôn và miền núi, khả năng tiếp cận với dịch vụ, sản phẩm của ngân hàng là thấp; thậm chí một lượng người không nhỏ sống ở đô thị nhưng từ chối sử dụng các dịch vụ công nghệ cao (như thanh toán không dùng tiền mặt) mà theo thói quen vẫn sử dụng thanh toán bằng tiền mặt. Một thói quen nữa của người dân tại các nước đang và chậm phát triển đó là thói quen tích trữ tiền mặt, vàng tại nhà. Từ đó, các hoạt động bán lẻ của các NHTM tại các nước phát triển sẽ diễn ra với tốc độ cao hơn so với các ngân hàng tại các nước đang và chậm phát triển, thu nhập từ các khoản này giữa các quốc gia cũng sẽ chênh lệch lớn.

* Sự phát triển của khoa học công nghệ

Sự phát triển của khoa học công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp ra cho nền kinh tế. Khoa học công nghệ phát triển tạo tiền đề cho các NHTM đa dạng được dịch vụ và sản phẩm công nghệ cao cho khách hàng, gia tăng tính an toàn và rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí khi sử dụng các dịch vụ và sản phẩm đó. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) đang diễn ra trên toàn thế giới, hiệu quả kinh doanh của NHTM ở các quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ.

Đi cùng với sự phát triển công nghệ trên thế giới, trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence- AI) đang là trọng tâm phát triển của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển. AI được các NHTM sử dụng trong quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng và quản lý cơ sở dữ liệu trong ngân hàng mình. AI có khả năng tự thích nghi với tiềm năng không giới hạn và hiệu quả hơn so với con người đã tác động mạnh tới mô hình tổ chức, quản trị của các NHTM.


Khoa học công nghệ phát triển kéo theo sự phát triển của mạng thiết bị số, nơi các NHTM được kết nối với nhau qua các phần mềm máy tính thông qua mạng Internet. Từ đây cấu trúc của hệ thống ngân hàng thay đổi, đặc biệt trong việc cung cấp cá dịch vụ, sản phẩm công nghệ cao. Các hoạt động giao dịch thanh toán trực tuyến trong nội bộ ngân hàng hoặc liên ngân hàng phát triển mạnh với chi phí thấp, phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong giao dịch thanh toán, không còn bị phụ thuộc vào thời gian và không gian, địa điểm. Sự phát triển của công nghệ vô hình chung đã giúp NHTM mở rộng được mạng lưới hoạt động của mình theo kênh không truyền thống với chi phí hoạt động được tinh giảm đi rất nhiều. Từ đây cho thấy, khoa học công nghệ đã góp phần lớn trong gia tăng hiệu quả kinh doanh của các NHTM.

* Đối thủ cạnh tranh

Các NHTM hoạt động trong cùng một hệ thống trong một quốc gia, hoạt động dựa trên niềm tin của khách hàng, do vậy các NHTM vừa có sự cạnh tranh vừa có sự hỗ trợ lẫn nhau.

Các sản phẩm, dịch vụ do các NHTM cung cấp về bản chất không có sự khác biệt nhiều với nhau, chỉ có sự khác biệt về mức giá và kênh phân phối. Giá của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng sẽ tạo ra sự khác biệt về thi phần hoạt động của ngân hàng. Những ngân hàng có giá sản phẩm và dịch vụ càng rẻ thì thị phần hoạt động của họ sẽ càng nhiều, hiệu quả kinh doanh gia twang, và ngược lại. Về phía kênh phân phối, các NHTM phân phối qua kênh truyền thống và kênh phân phối mới dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ (internet banking, mobile banking,…). Sự ra đời mới của kênh phân phối mới đã tạo điều kiện để khách hàng có thể tiếp cận được với dịch vụ, sản phẩm của các ngân hàng dễ dàng hơn với mức chi phí hợp lý hơn. Nói cách khác, yếu tố tạo nên sự cạnh tranh của các NHTM từ phía khách hàng đó là yếu tố về giá và kênh phân phối.

Ngoài sự cạnh tranh giữa các NHTM, họ còn có sự hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hoạt động, đặc biệt thông qua các khoản tiền gửi và cho vay qua thị trường liên ngân hàng. Sự hỗ trợ của các ngân hàng góp phần đảm bảo khả năng thanh khoản tức thời, giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng trong hoạt động tín dụng, đầu tư

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí