Các Chỉ Tiêu Phản Ánh Tình Hình Quản Lý Các Khoản Phải Thu Và Hàng Tồn Kho Của Công Ty Qua 3 Năm (2017 - 2019)‌

70


Bảng 2.8. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình quản lý các khoản phải thu và hàng tồn kho của Công ty qua 3 năm (2017 - 2019)‌


TT


Chỉ tiêu


ĐVT


Năm 2017


Năm 2018


Năm 2019

So sánh (%)

ӨBQ (%)

2018/

2017

2019/

2018

1

Các khoản phải thu bình quân

Đồng

1.705.482.120

1.617.414.023

1.482.742.764

94,84

91,67

93,24

2

Doanh thu thuần

Đồng

12.985.361.283

13.689.267.891

14.619.367.201

105,42

106,79

106,11

3

Hàng tồn kho

Đồng

4.835.694.326

6.191.593.587

7.108.205.000

128,04

114,80

121,24

4

Giá vốn hàng bán

Đồng

9.890.320.700

10.498.129.600

11.075.920.500

106,15

105,50

105,82

5

Vòng quay các khoản phải thu (2/1)

Vòng

7,614

8,464

9,860

111,16

116,49

113,80

6

Kỳ thu tiền bình quân ([360/(5)]

Ngày

47,282

42,535

36,512

89,96

85,84

87,88

7

Số vòng quay hàng tồn kho (4/3)

Vòng

2,045

1,696

1,558

82,90

91,90

87,28

8

Số ngày một vòng quay hàng tồn kho [360/(7)]

Ngày

176,016

212,321

231,038

120,63

108,82

114,57

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

(Nguồn: Trích từ Báo cáo tài chính, Báo cáo nhân sự của công ty năm 2017, 2018, 2019 và kết quả tính toán của tác giả)


Biểu đồ 2 16 Các chỉ tiêu thể hiện tình hình quản lý hàng tồn kho của công 1

Biểu đồ 2.16. Các chỉ tiêu thể hiện tình hình quản lý hàng tồn kho của công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi

(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả, 2020)

- Tình hình quản lý hàng tồn kho: Qua bảng 2.8 và biểu đồ 2.16 cho thấy, hàng tồn kho các năm có xu hướng biến tăng lên, năm 2017 hàng tồn kho là 4.835.694.326 đồng thì năm 2018 chỉ tiêu này tăng lên là 6.191.593.587, bằng 128,04% so năm trước, năm 2019 tiếp tục tăng lên là 7.108.205.000 đồng. Hàng tồn kho của Công ty chủ yếu là rừng đang trong độ tuổi đầu tư và sinh trưởng, chưa đến thời kỳ khai thác, một phần nhỏ hàng gỗ xẻ thành phẩm, và vật tư sản xuất, công ty hạch toán vào hàng tồn kho. Đây là một đặc thù riêng biệt của các công ty lâm nghiệp khi có chu kỳ kinh doanh dài (chu kỳ khai thác gỗ nguyên liệu thường từ 6-7 năm) nên vốn ứ đọng trong sản xuất cao, rủi ro lớn. Trong năm 2018, 2019 công ty tiếp tục trồng những diện tích rừng đã khai thác từ các năm trước nên chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng lên. Từ đó làm cho vòng quay hàng tồn kho và số ngày cho 1 vòng vòng quay hàng tồn kho (ngày dự trữ) biến động mạnh, năm 2017 vòng quay hàng tồn kho trung bình là 2,045 vòng tương đương với số ngày hàng dự trữ bình quân là 176,016 ngày, sang năm 2018 số vòng quay giảm so với năm trước và là 1,696 vòng, vì vậy số ngày dự trữ hàng tồn kho cũng tăng lên là 212,321 ngày, tiếp tục sang năm 2019 thì số vòng quay hàng tồn kho giảm và với số ngày dự trữ hàng tồn kho lên tới 231,038 ngày. Như vậy, việc giảm vòng quay hàng tồn kho gây ra những khó khăn trong việc đẩy nhanh vòng quay vốn

lưu động, thúc đẩy dòng tiền lưu thông, tạo điều kiên tiết kiệm chi phí tăng lợi nhuận cho Công ty. Đây là một dấu hiệu cho thấy công ty làm chưa tốt. Song, đây là đặc thù kinh doanh của công ty lâm nghiệp khi chu kỳ kinh doanh trồng rừng kéo dài tới 6-7 năm.

2.4. Một số nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi

Qua việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi cho thấy, công ty đã đạt được những kết quả nhất định, kết quả này đạt được chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể:

2.4.1. Nhân tố khách quan

- Các yếu tố về môi trường tự nhiên: Do đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp lâm nghiệp có chu kỳ kéo dài, rủi ro cao, trên diện rộng, đối tượng kinh doanh là cây rừng vì vậy phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên. Với đặc điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tổ chức sản xuất, quản lý, sử dụng các yếu tố nguồn lực của công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi.

Kết quả phỏng vấn sâu ban giám đốc và trưởng phó phòng lâm nghiệp cho thấy, thực tế hiện nay, diện tích đất rừng của công ty trải rộng trên nhiều địa bàn tỉnh Tuyên Quang có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, phức tạp, chủ yếu là đồi núi cao, có độ dốc lớn, độ phì nhiêu của đất không cao, điều này đã ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của Keo và Bạch đàn (2 loại cây trồng mà hiện nay công ty đang sản xuất). Độ dốc của đồi cao, cộng với nhiều dây leo nên làm cho chi phí xử lý thực bì của công ty tăng cao. Cùng với đó, trong những năm qua, các biến động của yếu tố tự nhiên như mưa gió, sâu bệnh …làm cây trồng bị chết nhiều. Theo kết quả phỏng vấn sâu, hiện nay trong kế hoạch kinh doanh của công ty tỉ lệ cho phép của trồng dặm là 7-8%, nhưng thực tế có những diện tích rừng cây bị chết lên 10-15%, vì vậy công ty lại phải trồng dặm bổ sung, điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.

Bên cạnh đó, do biến đổi khí hậu nên trong những năm qua vấn đề mưa lũ, sạt lở đất thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của rừng. Nhiều diện tích rừng của công ty bị bão, lũ ống cuốn trôi hoặc làm đổ, gãy làm mất đi kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Với đặc điểm tự nhiên như trên đã tạo ra các khó khăn không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của công ty.

- Nhà cung cấp và giá cả của nguyên vật liệu: Trong giai đoạn 2017 – 2019 giá cả gỗ nguyên liệu có nhiều biến động, giá cả các loại phân bón tăng…nên yêu cầu bắt buộc phải duy trì tồn kho nguyên vật liệu ở mức cao, đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Từ kết quả phỏng vấn sâu Ban giám đốc, trưởng phó phòng tài chính kế toán và trưởng phó phòng kinh doanh cho thấy, trong thời gian qua do biến động của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế trong nước, cùng với dịch bệnh làm cho giá cả một số loại phân bón (đạm, lân, kali, phân bón NPK 5-10-3) tăng lên, làm cho chi phí sản xuất tăng lên. Cùng với đó, các nhà cung cấp không cho nợ kéo dài, vì vậy công ty khó khăn trong việc thanh toán, không chiếm dụng vốn được của các đối tác. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây giá cây giống keo lai và bạch đàn cũng có nhiều biến động (dao động từ 800-1.200 đồng/cây) cũng ảnh hưởng lớn đến chi phí kinh doanh, qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty.

- Nhân tố kinh tế - xã hội: Giai đoạn 2017 - 2019 là giai đoạn mà nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn, có những bất ổn, đặc biệt là ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19 tạo ra những ảnh hưởng, khó khăn lớn đến các doanh nghiệp trong đó có Công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi. Cùng với đó, diện tích đất rừng trải dài qua nhiều địa phương, mỗi địa phương có những nét văn hóa và đặc thù khác nhau, điều này gây ra những khó khăn cho việc quản lý rừng của công ty như: nhận thức của người dân hạn chế nên vẫn còn hiện tượng chặt phá rừng, chặt chộm rừng của công ty, hoặc làm chết cây để được khai thác…Bên cạnh đó, giá cả lao động có nhiều biện động, làm chi phí phí phát dọn thực bì, trồng rừng tăng lên.

- Các chính sách của nhà nước: Hiện nay, nhà nước đã có những hộ trợ tích cực cho các doanh nghiệp lâm nghiệp. Kết quả phỏng vấn sâu Ban giám đốc công ty, trưởng phó phòng lâm nghiệp cho thấy, từ khi Chính phủ ký Quyết định 886/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 – 2020 đã có khá nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp lâm nghiệp như: Quyết định 38/2016/QĐ-TTg về Hỗ trợ chế biến gỗ rừng trồng đặc thù cho các tỉnh nghèo như tỉnh Tuyên Quang; Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách Hỗ trợ chi phí tư vấn xây dựng liên kết (theo đó các công ty lâm nghiệp sẽ được hỗ trợ 30% vốn đầu tư máy móc trang thiết bị cho sản xuất kinh doanh rừng trồng, hỗ trợ 100% chi phí tư vấn xây dựng liên kết, tối đa không quá 300 triệu đồng); Theo Quyết định 38/2016/QĐ-TTg, các

công ty lâm nghiệp sẽ được hỗ trợ 8 triệu đồng/ha khi trồng các loài cây sản xuất gỗ lớn (khai thác sau 10 năm tuổi), hỗ trợ 5 triệu đồng/ha (nếu chu kỳ khai thác rừng trước 10 năm tuổi); Đối với những diện tích rừng được cấp chứng chỉ rừng bền vững FSC sẽ được hỗ trợ 300.000 đồng/ha quy mô tối thiểu 100ha trở lên; Các hỗ trợ của nhà nước về khoanh nuôi, bảo vệ rừng, các chính sách về thuế, phí, vay vốn…Đây là những hỗ trợ rất lớn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các công ty lâm nghiệp nói chung và công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi nói riêng.

Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy, hiện nay một trong những nguồn hỗ trợ của các công ty lâm nghiệp là hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Song, do các khoản hỗ trợ này chủ yếu từ nguồn ngân sách nên tập trung hỗ trợ đối với diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, còn rừng trồng sản xuất được hỗ trợ rất thấp. Đối với diện tích rừng tự nhiên lại không được khai thác trong khi nguồn hỗ trợ ngân sách lại thấp nên không đủ bù đắp cho chi phí bảo vệ rừng. Một số bất cập về chính sách như các công ty lâm nghiệp sẽ được hỗ trợ 8 triệu đồng/ha khi trồng các loài cây sản xuất gỗ lớn (khai thác sau 10 năm tuổi) nhưng nếu chu kỳ sản xuất kéo dài sẽ gặp nhất nhiều rủi ro về thiên tai cùng với các khó khăn về vốn, hỗ trợ của nhà nước không đủ bù đắp các thiệt hại này. Tài sản lớn nhất của công ty lâm nghiệp là rừng và đất rừng, nhưng đất lại là sở hữu toàn dân nên các công ty lâm nghiệp không được góp vốn hoặc thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị rừng để liên doanh trong các dự án sản xuất kinh doanh, vay vốn kinh doanh…điều này cũng ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty.

Như vậy, hiện nay Chính phủ đã có hệ thống các cơ chế, chính sách toàn diện cho việc đầu tư bảo vệ phát triển rừng, chính sách cho đầu tư, hỗ trợ đầu tư, thúc đẩy công nghiệp chế biến gỗ...nhằm hỗ trợ nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách bền vững cho các doanh nghiệp lâm nghiệp như công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi. Tuy nhiên, do kinh doanh rừng sản xuất có chu kỳ dài, rủi rui trong quá trình sản xuất cao, địa bàn hoạt động chủ yếu ở các vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khó khăn, các doanh nghiệp lâm nghiệp phải cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội nên các hỗ trợ của nhà nước chưa thực sự đủ lớn để bù đắp được những chi phí của doanh nghiệp bỏ ra, vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty sẽ khó khăn hơn.

- Điều kiện giao thông vận tải: Hiện nay, công ty đóng trên địa bàn có điều kiện giao thông tương đối thuận lợi, hệ thống đường giao thông phân đều khắp các khu vực

trong vùng, tạo điều kiện thuận lợi để vận xuất gỗ từ bãi 2 đi tiêu thụ. Tuy nhiên, theo kết quả phỏng vấn sâu cho thấy diện tích rừng sản xuất của công ty lại trải dài trên nhiều địa bàn của tỉnh Tuyên Quang, nhiều diện tích rừng ở những vùng có điều kiện giao thông khó khăn, đồi núi cao, nhiều dây leo, máy móc khó vào nên việc vận chuyển gỗ từ rừng xuống bãi 1 khó khăn, làm cho chi phí khai thác tăng cao, bình quân chi phí vận chuyển từ rừng xuống bãi 1 là mức là 65.000 đồng/m3 và được tính theo ha dựa trên trữ lượng cây khai thác, chi phí khai thác là 230.000 đồng/m3 và được tính theo ha dựa trên trữ lượng cây khai thác.

- Về khách hàng: Khả năng tiêu thụ các sản phẩm gỗ nguyên liệu dễ dàng do nhu cầu xã hội ngày càng cao và công nghiệp chế biến phát triển, đặc biệt là chế biến gỗ bóc với qui mô hộ gia đình đang phát triển ở khắp mọi khu vực. Cùng với đó là nhu cầu gỗ nguyên liệu để sản xuất giấy cũng rất cao. Kết quả phỏng vấn sâu Trưởng, phó phòng kinh doanh cho biết, khách hàng chủ yếu hiện nay của công ty là Công ty cổ phần lâm sản Nam Định, Tổng công ty giấy Việt Nam, Ban Quản lý dự án phát triển lâm nghiệp Tuyên Quang, ...Tuy nhiên, cũng theo kết quả phỏng vấn sâu, hiện nay giá cả các loại gỗ cũng có nhiều biến động: Giá gỗ tròn loại 1 có đường kính từ 25 cm trở lên có giá cao nhất từ 2.600.000 đồng – 2.900.000 đồng/m3 (thường chu kỳ khai thác từ 9-12 năm; Giá gỗ tròn loại 2 có đường kính từ 22 đến dưới 25 cm có giá từ

2.200.000 đồng – 2.500.000 đồng/m3 (chu kỳ khai thác là 7-9 năm), giá cả phụ thuộc vào từng thời điểm, từng khối lượng xuất bán. Tuy nhiên, khi kéo dài chu kỳ khai thác sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro như mưa bão làm đổ, gẫy cây, cây bị bệnh, bị chết, cùng với đó là ứ đọng vốn kinh doanh. Vì vậy, hiện nay chu kỳ khai thác của công ty thường từ 6-7 năm, nên đường kính gỗ nhỏ, chủ yếu được bán cho các công ty sản xuất giấy, thường bị khách hàng ép giá nên doanh thu không cao, chi phí cao nên lợi nhuận thấp.

2.4.2. Nhân tố chủ quan

- Đặc thù ngành nghề sản xuất kinh doanh: Vốn lưu động của Nhà nước cấp từ trước để lại rất ít trong khi nhu cầu vốn kinh doanh, trồng rừng là rất lớn, Công ty phải vay vốn Ngân hàng để kinh doanh, do vậy chi phí lãi vay trong giá thành cao. Công ty TNHH MTV Nguyễn Văn Trỗi là công ty hoạt động trong lĩnh vực trồng rừng, sản xuất đồ gỗ nên hàng tồn kho luôn ở mức cao, nợ phải trả cũng cao, đặc biệt là các

khoản chiếm dụng vốn ngắn hạn. Điều này thể hiện năng lực tài chính thể hiện qua tính tự chủ tài chính không cao.

Đồng thời là doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ về cây giống, gỗ tự nhiên, gỗ rừng trồng, đồ nội thất nên tỷ trọng của tài sản ngắn hạn ở mức cao trong tổng tài sản, đặc biệt là các khoản phải thu. Điều này làm cho vòng quay khoản phải thu thấp, vốn ứ đọng trong khâu thanh toán.

Do Công ty vốn 100% nhà nước nên khả năng tiếp cận với đa dạng các nguồn vốn còn hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Hiện tại nguồn vốn chủ yếu của công ty là nợ ngắn hạn và vốn góp chủ sở hữu. Hình thức huy động vốn của Công ty còn rất hạn chế. Là Công ty TNHH nên Công ty chưa được huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Các khoản lợi nhuận được giữ lại không cao do tỷ lệ chi trả cho chủ sở hữu. Việc tiếp cận với các khoản vay dài hạn của ngân hàng vẫn còn hạn chế do Công ty chưa xây dựng uy tín vị thế trong mắt những chủ nợ chuyên nghiệp như ngân hàng.

- Năng lực quản lý tài sản của Công ty: Hiệu suất sử dụng tài sản chưa cao, khả năng thanh toán ngắn hạn thấp là do nhiều nguyên nhân như ngành nghề kinh doanh, tác động của tình hình kinh tế, nhưng nguyên nhân chủ quan phải kể đến đó là năng lực quản trị tài sản của Công ty còn rất hạn chế.

Tài sản ngắn hạn của Công ty cao nhưng khả năng thanh toán vẫn bình thường, bởi lẽ tài sản ngắn hạn của Công ty tập trung quá nhiều vào hàng tồn kho. Doanh nghiệp là một công ty lâm nghiệp mới chuyển đổi sang công ty TNHH MTV nên công ty vẫn đang trong quá trình mở rộng sản xuất, với mục tiêu trước mắt là trồng rừng, tăng doanh thu cho các ngành nghề kinh doanh, do vậy chính sách tín dụng của công ty còn chưa được mở rộng. Vì vậy tăng doanh thu cao nhưng lượng tiền thu về còn thấp, vốn vẫn còn ứ đọng trong khâu thanh toán.

- Bộ máy quản lý của Công ty còn cồng kềnh, nhiều phòng ban. Năng lực quản lý của lãnh đạo công ty có nhiều hạn chế, ngại đổi mới, tuy duy trông chờ vào chính sách của nhà nước vẫn còn nặng nề dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Trong bối cảnh hiện nay, để tăng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, bên cạnh tăng doanh thu thì tiết kiệm chi phí là một biện pháp hữu hiệu mà công ty cần lưu ý. Trong những năm qua công tác quản lý chi phí của công ty còn nhiều hạn chế, làm cho lợi nhuận của công ty không cao.

- Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty: Hiện nay, nhân tố này cũng ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy,

một số loại cơ sở vật chất, máy móc thiết bị của công ty như phương tiện vận chuyển, máy cưa, xe cũ, chưa được đầu tư, tu bổ, sửa chữa và tiến tới hiện đại hoá, đổi mới công nghệ của máy móc thiết bị. Từ đó, chi phí sản xuất kinh doanh của công ty hiện nay khá cao. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty.

2.5. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh của công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi

Qua phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi, cho thấy hiện nay công ty đã đạt được những thành công cũng như tồn tại những khó khăn hạn chế nhất định như:

2.5.1. Kết quả đạt được

- Thứ nhất, doanh thu, lợi nhuận có xu hướng tăng qua các năm.

Nhìn chung trong giai đoạn 2017-2019 tình hình hoạt động kinh doanh của công ty khá tốt, có xu hướng tăng qua các năm, tăng bình quân 8,21%/năm. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động bất ổn và diễn biến khó lường, ảnh hưởng của dịch bệnh, việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, đã có nhiều công ty, đặc biệt là các công ty lâm nghiệp 100% vốn nhà nước làm ăn không hiệu quả, nhiều công ty chỉ hoạt động cầm chừng không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà đặt mục tiêu ổn định phát triển lên trước nhất. Trong hoàn cảnh đó công ty TNHH MTV Lâm Nghiệp Nguyễn Văn Trỗi đã chỉ đạo điều chỉnh các chính sách sản xuất kinh doanh, điều chỉnh cơ cấu vốn dần hợp lý giúp cho hoạt động của công ty diễn ra khá tốt.

- Thứ hai, tổng tài sản của Công ty tăng lên qua các năm.

Tổng tài sản của Công ty tăng lên đáng kể qua các năm, tăng bình quân 10,49%/năm. Nguồn lực của Công ty tăng lên đáp ứng cho nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. Đây là dấu hiệu đáng mừng để công ty nâng cao hiệu quả kinh doanh.

- Thứ ba, khả năng tự chủ tài chính của Công ty ngày càng được cải thiện.

Trong những năm qua sự chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng dần tỷ trọng VCSH và giảm nợ phải trả cho thấy khả năng tự chủ tài chính của Công ty ngày một nâng cao. Số vốn chủ sở hữu của công ty chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng vốn huy động và có xu hướng tăng lên qua các năm. Phần lớn vốn mà công ty sử dụng cho sản xuất được hình thành thông qua con đường vay và nợ ngắn hạn. Điều này đã

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 04/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí