viết về xứ Nghệ. Vũ Minh Tâm lại nhìn nhận Thơ Lê Thánh Tông- Đạo và Mĩ. Bùi Duy Tân tiếp nhận Cảm hứng dân tộc- cảm hứng nhân văn qua thơ nôm vịnh sử của Lê Thánh Tông. Đặng Thanh Lê chỉ ra Giai đoạn khai sáng thơ Nôm Đường luật: cảm hứng lịch sử qua thơ Lê Thánh Tông. Nguyễn Phạm Hùng đưa Mấy nhận xét về nghệ thuật thơ Nôm trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập. Đây cũng là cách mà Vương Lộc viết Một vài nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập…
Như vậy, có thể hình dung sự nghiên cứu về nghệ thuật thể hiện con người trong thơ Lê Thánh Tông tuy nhiều nhưng còn rời rạc, chưa có hệ thống và chưa thật chuyên sâu. Vấn đề con người nhà nho- hoàng đế này vì thế vẫn còn bỏ ngỏ. Và đó là điều quan tâm của Luận án chúng tôi…
Tóm lại: qua những kết quả nghiên cứu về vấn đề nhân vật, thi pháp nhân vật trong VHTĐVN giai đoạn thế kỉ X- XV ở hai thể loại Thơ, Văn xuôi chúng tôi cho rằng tất cả đều là những định hướng, gợi mở quan trọng đối với đề tài Luận án. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng dù đã được ít nhiều đề cập đến nhưng vấn đề nhân vật đặc biệt là hệ thống nhân vật và thi pháp nhân vật trong giai đoạn này vẫn chưa được giới nghiên cứu chú ý đúng mức. Có thể xem Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là một miền đất tuy không ―lạ‖ nhưng còn rất nhiều điều mới mẻ. Chúng tôi không có tham vọng đặt chân và chiếm lĩnh được toàn bộ miền đất ấy song sẽ làm việc nghiêm túc, khoa học để có thể có những đóng góp thiết thực, ý nghĩa cho công tác nghiên cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường.
1.2. Giới thuyết chung về vấn đề nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn X-XV nên cũng sẽ liên quan đến những vấn đề lí thuyết về hệ thống nhân vật như khái niệm hệ thống, khái niệm nhân vật là gì? Phân biệt nhân vật trong thơ và trong văn xuôi? Thi pháp tả nhân vật? kiểu tác giả trong tương quan với kiểu nhân vật? Tuy nhiên những vấn đề lí luận đó đã được nhiều nhà khoa học danh tiếng, uy tín như Phương Lựu, Trần Đình Sử, Bùi Duy Tân, Trần Nho Thìn, Lã Nhâm Thìn, Nguyễn Đăng Na, Trần Ngọc Vương…trình bầy trong các công trình khoa học của mình. Nhiệm vụ của chúng tôi không đi sâu vào những vấn đề lí luận nhân vật, vạch ra để đi vào nghiên cứu nhân vật và thi pháp nhân vật trong VHTĐVN giai đoạn X-XV. thi pháp nhân vật, mà là sự vận dụng lí thuyết mà con đường của các nhà nghiên cứu đi trước đã.
1.2.1. Khái niệm hệ thống
Có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhàu về ―hệ thống‖.
Định nghĩa của mục từ Систе́ма (hệ thống) trong Wikipedia (Nga văn) ―Hệ thống chỉ nhiều thành tố có quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể nhất định‖.
(Систе́ма (от др.-греч.σύστημα — целое, составленное из частей; соединение) — множество элементов, находящихся в отношениях и связях друг с другом, которое образует определѐнную целостность, единство[1].)
Wikipedia Anh văn về từ system cũng định nghĩa tương tự: ―Một loạt các thành tố độc lập với nhau hoặc có quan hệ với nhau tạo thành một chỉnh thể‖.
Có thể bạn quan tâm!
- Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 2
- Lịch Sử Nghiên Cứu Về Ba Loại Nhân Vật Thiền Sư, Liệt Nữ, Hoàng Đế Trong Văn Học Giai Đoạn X-Xv
- Nghiên Cứu Về Thi Pháp Tả Nhân Vật Văn Học Trung Đại
- Đường Lối Thiền Tông Và Quan Niệm Về Ngôn Từ Của Thiền Tông
- Nhân Vật Thiền Sư Huyền Quang Tự Biểu Hiện Qua Thơ Thiền-Kệ
- Thi Pháp Miêu Tả Nhân Vật Huyền Quang Trong Thơ Thiền
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
(A system is a set of interacting or interdependent components forming an integrated whole[1]or a set of elements (often called 'components') and relationships which are different from relationships of the set or its elements to other elements or sets.[citatio]
Như vậy khi nói tới hệ thống là nói tới tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị có quan hệ hoặc liên hệ với nhau làm thành một thể thống nhất (chẳng hạn như hệ thống đèn giao thông, hệ thống các phạm trù ngữ pháp, hệ thống tuần hoàn, hệ thống chính trị). Với cách hiểu như vậy, chúng tôi quan niệm về hệ thống như sau: Hệ thống là tập hợp các yếu tố đồng đẳng hoặc không đồng đẳng có quan hệ chi phối lẫn nhau và cùng chịu sự chi phối của hệ thống. Áp dụng vào nghiên cứu văn học giai đoạn X- XV có thể thấy: văn học giai đoạn X-XV là một hệ thống, còn loại hình/kiểu nhân vật sẽ là các yếu tố/thành tố. Hệ thống nhân vật trong văn học giai đoạn X-XV gồm những thành tố (kiểu nhân vật): nam nhi- quý tộc- vua quan - nhà nho - ẩn sĩ- thiền sư- phụ nữ…Những loại nhân vật này đều chịu sự chi phối của hệ thống tư tưởng tôn giáo triết học và mĩ học Nho – Phật – Đạo được hình thành ở giai đoạn X-XV. Nghiên cứu hệ thống là nhằm chỉ ra vai trò của một thành tố (kiểu nhân vật) trong chỉnh thể văn học giai đoạn X-XV. Từ hướng tiếp cận hệ thống theo quan điểm nhân học văn hóa về con người, luận án đã lựa chọn ba kiểu nhân vật/ba yếu tố tiêu biểu của hệ thống nhân vật giai đoạn đầu là Thiền sư, Liệt nữ, Hoàng đế.
1.2.2. Khái niệm về nhân vật
Nhân vật hiểu theo nghĩa chung là ―hình tượng con người được miêu tả, được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đây là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật trong tác phẩm văn học thường gắn liền với một quan niệm nghệ thuật về con người‖. Khái niệm này cung
cấp cho chúng ta những cách hiểu cụ thể về nhân vật văn học như sau: 1. nhân vật là hình tượng con người được thể hiện bằng phương tiện văn học (ngôn từ, hình ảnh, miêu tả ngoại hình, nội tâm…); 2. qua nhân vật, tác giả văn học muốn miêu tả thế giới. Vì trung tâm của thế giới là con người; 3. nhân vật được khắc họa theo nguyên tắc là quan niệm của tác giả về con người chứ không phải được tả ngẫu nhiên. Các quan niệm đạo đức, chính trị của tác giả trung đại sẽ ảnh hưởng đến việc tả nhân vật.
1.2.3. Nhân vật trong văn xuôi và nhân vật trong thơ
Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm của nhân vật. Nhân vật còn được thể hiện qua xung đột, mâu thuẫn, sự kiện và được thể hiện bằng các phương tiện kết cấu, ngôn ngữ, bằng các phương thức miêu tả riêng của thể loại. Nhân vật trong văn xuôi thường được hiện lên qua khắc hoạ của tác giả về ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ, hành động, tâm lí…và xuất phát từ điểm nhìn bên ngoài của người trần thuật. Còn nhân vật trong thơ có hai loại: 1) nhân vật trữ tình (như chinh phụ, cung nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm) bộc lộ cảm xúc cũng là sản phẩm hư cấu của tác giả – kiểu nhân vật này thể hiện ý đồ tư tưởng của tác giả (ví dụ, qua nhân vật chinh phụ là một phụ nữ, tác giả nam giới Đặng Trần Côn muốn giúp người phụ nữ nói lên những nỗi niềm riêng tư mà bản thân người phụ nữ khó nói. 2) cái tôi trữ tình: bộc lộ trực tiếp cảm xúc và tâm lý tác giả, là hình tượng của chính tác giả, là chân dung tự họa, thể hiện tư tưởng đạo đức thẩm mỹ của chính tác giả, tuy nhiên cái tôi không đồng nhất với con người tiểu sử của tác giả.
Vì có sự khác nhau giữa nhân vật trong văn xuôi và trong thơ nên do đó cũng có sự khác nhau giữa cách thể hiện nhân vật trong thơ và trong văn xuôi nói chung. Do đặc điểm thể loại nên thơ trữ tình, thiên về tả cảm xúc, còn văn xuôi tả thiên về sự kiện. Nhưng cũng không có danh giới tuyệt đối, vì có thơ tự sự, mà có văn xuôi trữ tình. Do văn xuôi trung đại còn manh nha nên việc xây dựng nhân vật của văn xuôi trung đại có đặc điểm riêng, ví dụ chưa tả nội tâm sâu sắc, tả nhân vật chưa có chân dung cụ thể chi tiết. Thơ nói chí trung đại cũng đem lại đặc điểm của việc thể hiện nhân vật chứ không phải nhân vật trung đại có đặc điểm riêng (ví như nói chí chứ không nói tình, ít thể hiện cảm xúc mãnh liệt). Các thể loại khác nhau thì miêu tả nhân vật khác nhau. Thơ trữ tình thiên về tả cảm xúc được dùng tỏ chí, giáo huấn. Văn xuôi tự sự như truyện ngắn, văn chép sử thiên về khắc họa nhân vật với bản chất tạo hình rõ nét hơn nhân vật trong thơ. Do đó khi đọc văn bản, cần chú ý đến sự khác nhau giữa các thể loại.
1.2.4. Khái niệm thi pháp và thi pháp học
Thi pháp (Poetika) là nghiên cứu các phương diện hình thức mang tính nội dung. Thực chất nhiệm vụ của thi pháp là nghiên cứu thế giới nghệ thuật khép kín của văn bản, bổ sung cho các hướng tiếp cận ngoài văn bản như xã hội học,văn hóa học, phương pháp tiểu sử.
Thi pháp học là một danh từ mới nhưng không xa lạ. Đó là tên gọi một bộ môn cổ xưa nhất nhưng đồng thời cũng là bộ môn hiện đại nhất của nghiên cứu văn học, đang đem lại cho ngành này những luồng sinh khí mới. Nói xưa nhất vì tên gọi của nó được xác định với công trình Thi pháp học ra đời cách đây hơn 2000 năm. Nói hiện đại bởi thi pháp học đã trở thành một trong những hướng chủ yếu của nghiên cứu văn học thế kỉ XX và vẫn đang tiếp tục ở thế kỉ XXI. Thi pháp học đã trải qua những bước thăng trầm và đang hồi sinh. Các nhà nghiên cứu văn học hàng đầu ở Nga như M.Khrapchenco, Averinxep, M.Poliakop…đều khẳng định: thi pháp học là một khoa học nghiên cứu hình thức nghệ thuật nhưng phải là hình thức bên trong- hình thức mang tính quan niệm mới là đối tượng của thi pháp học. Hình thức bên trong là hình thức của cái nhìn nghệ thuật, là sự hiện diện của con mắt nghệ sĩ, đó là hình thức mang tính chủ thể (M.Bakhtin), hình thức mang tính quan niệm (Trần Đình Sử). Nói tới quan niệm (concept) là nói tới một phương thức, một cách giải thích đối với một đối tượng, một hiện tượng, một quá trình nào đó, là một quan điểm cơ bản đối với chúng ta, là tư tưởng chủ đạo đối với một hoạt động có tính hệ thống. Quan niệm cũng được hiểu là một cách hiểu, cách giải thích, trở thành nguyên tắc cấu tứ, xây dựng trong hoạt động nghệ thuật. Đó là một yếu tố có sức mạnh tạo hình rất to lớn. Nhưng tính quan niệm chúng tôi nói tới ở đây không phải là khái niệm hoá, công thức hoá hình thức, mà là nội hàm quan niệm trong hình thức, trong cảm nhận. Có khi tác giả không tự ý giác được quan niệm của mình. Vấn đề là trong các yếu tố hình thức có sự ngưng kết một quan niệm về đời sống. Hình thức mang tính quan niệm đã thể hiện tập trung nhất, tư tưởng, cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, sau nữa là nhãn quan ngôn ngữ của tác giả. Hình thức không gắn với quan niệm thì hình thức không có chiều sâu. Ngược lại quan niệm không thể hiện qua hình thức tất sẽ rơi vào siêu hình. Khám phá văn học trở lên chính là dùng văn học để lí giải văn học trong quan hệ đời sống, trả lại bản chất nhân học cho văn học. Đây là cái nhìn mang tính nhân học trong tư duy nghiên cứu của những nhà nghiên cứu đi trước mà chúng tôi sẽ tiếp thu để vận dụng vào nghiên cứu thi pháp nhân vật.
Với những quan niệm như trên về thi pháp, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu thi pháp nhân vật ở phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người, ngôn từ và hình tượng nghệ thuật.
Quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học là nhân học, đối tượng chủ yếu của nó là con người. Không thể lí giải một hệ thống văn, thơ mà bỏ qua con người được thể hiện trong đó. Quan niệm nghệ thuật về con người là cách hiểu, cách cảm nhận về con người gắn với một hệ thống phương tiện nghệ thuật nhất định. Bởi lẽ con người trong văn học đâu phải con người có trong thực tế mà là quan niệm về con người ấy một cách thẩm mĩ và nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người có thể được biểu hiện trên nhiều cấp độ khác nhau song rõ nhất là ở sự miêu tả nhân vật với những phương diện như: chân dung, ngoại hình, hành động, tâm lí, nội tâm.
Nhìn chung quan niệm nghệ thuật về con người là một yếu tố quan trọng nhất, thể hiện tính chỉnh thể của hình thức nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học có nhiều sự khác biệt, đa dạng. Nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người không chỉ giúp ta phân biệt thế giới nghệ thuật của người này với người khác mà còn thấy được sự tiến hoá của văn học nghệ thuật nghĩa là văn học nghệ thuật không ngừng đào sâu quan niệm nghệ thuật về con người. Ví như giai đoạn đầu VHTĐVN các tác giả chưa chú ý nhiều đến miêu tả tâm lí nhân vật nhưng đến thế kỉ XVIII-XIX thì tâm lí nhân vật lại được miêu tả ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngôn từ nghệ thuật
Ngôn từ là phương tiện sáng tác văn học vì văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn từ trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Có nhiều quan niệm khác nhau về ngôn từ nghệ thuật. Tuy nhiên đứng trên góc độ thi pháp ngôn từ trên cấp độ hình thức nghệ thuật chúng tôi chỉ đặc biệt chú ý tới phương diện nhãn quan ngôn ngữ của tác giả. Nhãn quan là cách nhìn, cách cảm nhận về ngôn ngữ văn học. Nó gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Ngôn từ văn học bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cách sử dụng nó thì phụ thuộc vào nhãn quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lưu, khuynh hướng văn học, mỗi thể loại văn học, gắn liền với bối cảnh văn hoá khu vực, dân tộc. Vận dụng vào nghiên cứu thi pháp nhân vật, Luận án sẽ nghiên cứu ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ của bản thân nhân vật.
Hình tượng nghệ thuật:
Có nhiều định nghĩa về khái niệm hình tượng nghệ thuật. Trong luận án này, khái niệm hình tượng nghệ thuật được xác định như sau: những hình ảnh cụ thể, đồng thời là những ước lệ nghệ thuật phản ánh bản chất của đối tượng miêu tả, khái quát hoá đối tượng miêu tả.
Như vậy, thi pháp thực chất là nghiên cứu hình thức tác phẩm, nghiên cứu thế giới nghệ thuật khép kín của văn bản để bổ sung cho những vấn đề ngoài văn bản như nội dung phản ánh, về tiểu sử tác giả hay người đọc. Luận án nghiên cứu nội dung tác phẩm viết về nhân vật và nghiên cứu thi pháp tức là nghiên cứu hình thức nghệ thuật của hình tượng nhân vật.
1.2.5. Kiểu tác giả
Hình tượng tác giả trong văn học là kết quả vận động của tiến trình văn học qua các thời kì. Trong suốt tiến trình văn học, hình tượng tác giả thay đổi theo những mô hình khác nhau với những khả năng nhận thức và biểu hiện khác nhau. Và chính quá trình vận động đó đã hình thành nên kiểu tác giả. Vậy kiểu tác giả là gì? Kiểu tác giả trung đại có đặc điểm gì riêng? VHTĐVN giai đoạn X- XV xuất hiện những kiểu tác giả nào?
Kiểu tác giả là sự biểu hiện một kiểu chiếm lĩnh đời sống, một kiểu xây dựng hình tượng, là sản phẩm của người đọc. Mỗi một thời đại nhà văn phải tìm ra một kiểu tác giả phù hợp mới có giá trị. Lịch sử văn học đã biết đến những kiểu tác giả khác nhau. Có thể đó là kiểu tác giả chủ nghĩa cổ điển với đặc tính con người lí trí, thích mức độ, ưa tao nhã, trí thức uyên bác hay kiểu tác giả lãng mạn thì mơ màng, giàu tưởng tượng…
Các nhà nghiên cứu VHTĐ từ lâu đã chú ý đến kiểu tác giả VHTĐ. Nhà nghiên cứu Ripstin đã nhận xét rằng tác giả trung đại dù ở Phương Đông hay Phương Tây trong một mức độ lớn đều xây dựng tác phẩm của mình bằng những công thức tu từ và cốt truyện có sẵn. Nhà nghiên cứu Likhachop cũng nói: ―ý thức công thức, khuôn sáo làm cho kiểu tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ‖. Ông cũng nói, tác giả trung đại là người xem sáng tác là công việc trân trọng, thành kính, không làm việc đùa (…) nếu như nhà văn hiện đại thường cá thể hóa cao độ, cho nên không còn nhìn thấy một hình tượng tác giả chung cho từng thể loại, thế nhưng đó lại là đặc điểm của tác giả trung đại: mỗi một thể loại có một hình tượng tác giả, và một tác giả sáng tác các thể loại khác nhau sẽ tuân theo các kiểu hình tượng tác giả khác nhau. [118; tr 99-100].
Kiểu tác giả trong VHTĐVN cũng có những đặc thù và chịu ảnh hưởng của nền văn học chữ Hán. Mỗi một giai đoạn trong tiến trình lịch sử, VHTĐVN cũng xuất hiện nhiều kiểu tác giả phù hợp. Trong vài thế kỉ đầu, tác giả phần nhiều là nhà sư: Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh thiền sư, Mãn Giác thiền sư, Diệu Nhân ni sư…Điều đó cũng dễ hiểu, bấy giờ Phật giáo đang có vị thế quan trọng trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đặc biệt trong đời sống tâm linh của đông đảo tín đồ. Một số tác giả ngoài chùa lúc bấy giờ như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt, Đoàn Văn Khâm…cũng sùng tín đạo Phật và để lại tác phẩm chịu ảnh hưởng Phật giáo. Sang đời Trần, lực lượng sáng tác ngoài thiền sư, cư sĩ, nhà văn tu trì Phật pháp: Trần Thái Tông, Trần Tung, Trần Nhân Tông, Huyền Quang…còn có quý tộc, vua quan, tướng lĩnh: Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão…; rồi từ giữa triều Trần đến hết triều Hồ chủ yếu là nho thần: Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Phi Khanh, Sử Hy Nhan, Đào Sư Tích… Đến thế kỉ XV, sau thế hệ các cựu tiến sĩ triều Hồ tham chiến chống quân Minh trở thành các tác gia tên tuổi lừng lẫy: Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn…là vận hội mới của thế hệ các tác giả tân tiến sĩ triều đại Lê sơ, khi Nho giáo chiếm lĩnh vị trí chính thống. Nho học được coi là quốc học. Những tác giả văn học nửa sau thế kỉ XV: Nguyễn Trực, Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đàm Văn Lễ, Vương Sư Bá, Nguyễn Bảo, Thái Thuận…hầu hết đều là nho sĩ quan liêu thời đại hoàng kim của Nho giáo. Cuối thế kỉ XV, với đội ngũ tiến sĩ đang là lực lượng sáng tác hùng hậu của thời đại, ông vua- nhà nho Lê Thánh Tông đã cao hứng sáng lập Hội Tao đàn xướng họa mừng hai năm liên tiếp được mùa. Hội có 28 từ thần gọi là Tao đàn nhị thập bát tú, cũng là 28 tiến sĩ đang cư quan nhậm chức ở triều đình. Như vậy, VHTĐVN giai đoạn X- XV đã chứng kiến sự ra đời của các kiểu tác giả như thiền sư, quý tộc, vua quan, võ tướng, nhà nho. Và điều đáng chú ý là: các kiểu tác giả này đã vận động theo tình hình chính trị, xã hội của nhà nước phong kiến Việt Nam thời mở đầu. Từ tác giả thiền sư, quý tộc, vua quan chiếm đa số trên văn đàn đến sự tức vị của các tác giả nho sĩ. Qua khảo sát, thống kê các kiểu tác giả VHTĐVN thời Lí- Trần trong bộ sách Thơ văn Lí- Trần, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau:
- Từ thời Lí đến Trần, kiểu tác giả Thiền sư biến đổi theo chiều hướng giảm dần: từ chiếm đa số với 39 tác giả ở tập I (65%) đến chỉ còn là một bộ phận nhỏ với 2 tác giả ở tập II (chiếm 6%) và 2 tác giả ở tập III (chiếm 4%).
- Kiểu tác giả nhà Nho lại phát triển theo chiều hướng ngược lại: từ chỗ lẻ tẻ với 7 tác giả ở tập I (11,7%) đến chiếm số lượng lớn với 15 tác giả ở tập II (44%) và cuối cùng là sự áp đảo với 37 tác giả ở tập III (74%).
- Về số lượng thì kiểu tác giả quý tộc không có những biến động mạnh như hai loại hình tác giả kể trên (sự diễn biến lần lượt là: tập I có 11 tác giả, chiếm 18,3%; tập II có 13 tác giả, chiếm 38%; tập III có 11 tác giả chiếm 22%) nhưng xét về tính chất lại có sự biến đổi to lớn. Đã có sự thay đổi từ kiểu quý tộc- thiền sư sang kiểu quý tộc- nhà nho.
Như vậy, có thể thấy VHTĐVN giai đoạn mở đầu xuất hiện những kiểu tác giả chính là Thiền sư, Quý tộc, vua quan, nhà Nho. Từ đời Lí đến đầu đời Trần kiểu tác giả thiền sư, quý tộc, vua quan chiếm đa số. Đến cuối đời Trần và thế kỉ XV kiểu tác giả nho sĩ lại giữ vị trí quan trọng trên văn đàn. Kiểu tác giả thiền sư thì thường có vai trò trung tâm trong các thể loại văn học chức năng lễ nghi Phật giáo. Kiểu tác giả quý tộc, vua quan gắn với những thể loại mang chức năng hành chính, xã hội như cáo, chiếu, biểu, hịch…Kiểu tác giả nho sĩ lại thường lựa chọn thể loại thơ ―ngôn chí‖, nói chí, tỏ lòng theo tinh thần của Nho gia.
Các kiểu tác giả trên có khi họ đóng vai trò là người quan sát, sáng tạo nên những nhân vật văn học như kiểu nhân vật thiền sư trong Thiền uyển tập anh hay nhân vật phụ nữ trong Lĩnh Nam chích quái, VĐUL, Tam Tổ thực lục…; có khi họ lại tự biểu hiện mình trong tác phẩm và khi đó ―nhân vật‖ chính là hình bóng con người thật của họ, điều này có thể thấy trong sáng tác phần lớn của thơ nhà nho, quý tộc-hoàng đế, thơ thiền-kệ…
Nhìn chung từ quá trình vận động loại hình nhân cách thiền sư, quý tộc, nho sĩ như trên có thể thấy được quá trình vận động của kiểu tác giả cũng như kiểu nhân vật trong VHTĐVN giai đoạn X- XV. Phần nhiều các kiểu nhân vật như Hoàng đế (qua sáng tác của các vua Lý-Trần, vua Lê Thánh Tông), nam nhi (qua sáng tác của Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Đặng Dung, Trần Quốc Tuấn…), nhà nho (qua sáng tác của Nguyễn Phi Khanh, Trần Nguyên Đán, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An, Nguyễn Trãi…), ẩn sĩ (qua sáng tác của Trần Nguyên Đán, Chu Văn An, Nguyễn Trãi…), thiền sư (qua thơ Thiền thời Lý-Trần và tác phẩm văn xuôi Thiền uyển tập anh)…dù ít dù nhiều đều đã từng xuất hiện trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu của nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi như Trần Đình Hượu, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu, Nguyễn Huệ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Lã Nhâm Thìn, Nguyễn