Nhân Vật Thiền Sư Huyền Quang Tự Biểu Hiện Qua Thơ Thiền-Kệ

2.2. Nhân vật thiền sư Huyền Quang tự biểu hiện qua thơ thiền-kệ

2.2.1. Chân dung tự hoạ của thiền sư Huyền Quang

Khảo sát 24 bài thơ-kệ của Huyền Quang trong sách Thơ văn Lí-Trần (tập Hai. NXBKHXH, H-1988) và sách Thơ Thiền Việt Nam-những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật (NXBĐHQGHN, H-1998) – xem phần Phụ lục 1, chúng tôi thấy chân dung tự hoạ thiền sư Huyền Quang được bộc lộ qua hai phương diện chính: tu hành giữa thiên nhiên và tu hành giữa cuộc đời.

2.2.1.1. Tu hành giữa thiên nhiên

Con đường tu luyện – trở về với thiên nhiên

Trong tổng số những bài thơ thiền Lí- Trần, có một bộ phận tuy không lớn nhưng rất có giá trị, giàu tính văn học, đó là bộ phận thơ thiên về trữ tình, gần với thơ trữ tình thuần túy, thơ thế tục. Bộ phận này ở đời Trần chiếm tỉ lệ cao hơn nhất là trong sáng tác của những tác gia lớn như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Huyền Quang…―Nó là sự thăng hoa tinh thần hồn nhiên, trong trẻo nhất, là sự đạt đạo tới trạng thái “nhất tâm”, vượt qua mọi sự “hữu chấp”, trở về với tự nhiên, tươi tắn nhất.‖ [24; tr.49-50]. Và trên hết, trở về với thiên nhiên, cuộc sống là sự lựa chọn cho những tâm hồn luôn có khát vọng tìm kiếm sự thuần khiết trong yên tĩnh và thanh thản. Ta biết rằng mục đích của Thiền là đạt được tự do của mình về cả hai mặt thân tâm. Bởi thế tu thiền cần tìm đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt và loạn động của thế gian. Các bộ kinh Ấn Độ vẫn thường nói: ―tìm đến chỗ vắng, trụ tâm ngồi tịnh‖[115;tr.122] vì ―những khu rừng hoang vu, thâm u tĩnh mịch, không một tiếng động, nơi gió rì rào thổi qua cánh đồng cỏ ẩn kia không ai hay‖ là nơi thuận tiện nhất cho việc trầm tư quán tưởng.

Huyền Quang hiện lên trong thơ trước hết là một nhà tu hành giữa thiên nhiên. Ta biết rằng nhà sư tu hành để đắc đạo, mà muốn đắc đạo thì cần tĩnh tâm, cần thiền định (quét sạch mọi trạng thái tâm lý làm nhiễu loạn tâm). Để thiền định, đạt được sự tĩnh tại, tịch mịch của tâm, tốt nhất là tìm về thiên nhiên thanh tĩnh, tránh khỏi cuộc đời ồn ào, nhiều cám dỗ. Trương Hán Siêu từng nói: ―Hễ nơi nào có núi cao cảnh đẹp là làm chùa‖. Cũng cần thấy rằng cả nhà nho, đạo gia và thiền sư đều sống giữa thiên nhiên và có thơ viết về thiên nhiên song mục đích lại khác nhau: Nhà nho về với thiên nhiên để tỏ nhân cách cao thượng. Đạo gia tìm về thiên nhiên để ca tụng tự do nhân cách, còn nhà sư lại dùng hình tượng thiên nhiên để diễn tả phương pháp tu hành, để đạt được tâm thế thiền định, thanh tĩnh, gạt bỏ mọi quan hệ với người đời.

Đọc những bài thơ viết về thiên nhiên đặc sắc của Huyền Quang như Ngọ thụy, Chu trung, Trú miên, Thạch thất, Sơn vũ, Phiếm chu, Tảo thu, Yên Tử am sơn cư…chúng tôi nhận thấy rằng: thiên nhiên trong thơ Huyền Quang ông thường không một bóng người, chỉ có cảnh vật và không gian tĩnh lặng. Ta hãy đến với những cảm nhận tinh tế, sâu sắc đối với cảnh vật của thiền sư- thi sĩ Huyền Quang: ―Một lá thuyền con, một khách hải hồ- Trèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc‖ (Nhất diệp biển chu hồ hải khách. Xanh xuất vi hàng phong thích thích- Chu trung); ―Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh/Non xanh nước biếc lại thêm ánh sáng mùa thu/Vài tiếng sáo làng chài ở ngoài khóm hoa lau vọng tới/Trăng rơi đáy nước, sương phủ đầy sông‖ (Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang. Sơn thanh thủy lục hựu thu quang. Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại. Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương- Phiếm chu);

―Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ/Cây trước sân xào xạc báo thu về‖ (Dạ khí phân lương nhập họa bình. Tiêu tiêu đình thu báo thu thanh- Tảo thu); ―Trồng hoa và cây quấn quýt thành núi non bộ/Khói tỏ trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo‖ (Hoa mộc di duyên chủng tác sơn. Lung yên trao nguyệt, lạc hoa tàn- Đề Động Hiên Đàn Việt giả sơn)…Có thể nói đây là những câu thơ đích thực của một tâm hồn thi sĩ với những hình ảnh đẹp long lanh. Ta bắt gặp ở đây một con người từng trải, giàu tình cảm, yêu cái đẹp. Đó là con người có thể thả hồn giong chơi với ―non xanh nước biếc‖ để kịp ngỡ ngàng trước vẻ đẹp ―trăng rơi đáy nước, sương phủ đầy sông‖. Đó cũng là con người tinh tế cảm nhận được giờ khắc giao mùa khi ―khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ‖ và ―cây trước sân nhà xào xạc‖ là lúc mùa thu đã về…

Đặc biệt qua khảo sát 24 bài thơ của Huyền Quang chúng tôi nhận ra rằng trong thế giới thi thiền của ông có ba dạng thức không gian chính: chùa; quê nhà, sông nước và núi rừng. Trong đó các địa danh chùa được ông nhắc đến 5 lần trong 5 bài thơ: Nhân có việc đề ở chùa Cứu Lan, Ở Am núi Yên Tử, Hoạ bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh, Đề chùa Đạm Thuỷ, Chùa Diên Hựu. Tựa các bài thơ ghi tên của chùa, chùa là nơi lui về ở ẩn, tự nó đã tràn đầy sức sống của thiền. Còn không gian quê nhà, sông nước cũng được nhắc tới 4 lần. Với sông nước ta thường thấy nhà thơ nói tới trong mối quan hệ với ―chiếc thuyền con‖ và ―ánh trăng‖ (trong bài Trong thuyền, Chơi thuyền). Với quê nhà ta bắt gặp hai hình ảnh: ―Vườn tược cha ông mặc sức cày/…Gió mát triền miên giấc mộng ngày” (Ngủ ngày), “Vườn cũ nơi nơi rộ hoa vàng” (Cúc hoa, I). Được nhắc tới nhiều nhất (6 lần) và thi vị nhất (nhiều hình ảnh thơ đẹp) là không gian núi rừng thuần khiết: ―Sau khi mưa, khe và núi đều sạch làu/ Đánh một giấc mộng mát mẻ trong rừng phong‖ (Ngủ trưa); ― Làm sao bằng theo bạn trở về núi/ Giữa muôn vàn tầng núi non như bình phong trùng điệp‖ (Nhân có

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

việc đề ở chùa Cứu Lan); ―Đêm khuya gió thu sịch động bức rèm/ Nhà trong núi đìu hiu gối vào lùm dây leo xanh biếc” (Nhà trong núi); ―Sao bằng ở ẩn nơi rừng suối/ Một sập gió thông, một chén trà” (Tặng học trò trên đường sĩ hoạn); “Rừng trúc có nhiều chim đậu/ Quá nửa là bạn của nhà sư thanh nhàn‖ (Ở am núi Yên Tử)…Cả ba dạng thức không gian trên xét về đặc điểm cảnh vật thì khác nhau nhưng về bản chất thì lại rất giống nhau: đó là những nơi vắng bóng người, một thế giới khác hẳn thế giới trần tục là mơ ước của Thiền sư. Như đã nói, không gian siêu thoát trong thơ thiền là điểm gặp gỡ trong cảm nhận của thơ các nhà nho. Tuy nhiên, nếu các thiền sư lựa chọn không gian này với một tâm thế thoải mái, tất yếu cho việc dưỡng chân tâm thì ở nhà nho nhiều khi còn có những giằng co trong lựa chọn giữa không gian siêu thoát và không gian thế tục. Nhà sư một khi đã lựa chọn không gian thiên nhiên thì không để tâm vướng vào vòng tục luỵ nữa. Chẳng thế mà Huyền Quang còn dường như quên cả ý niệm về thời gian thực tế: ―Cuối năm ở trong núi không có lịch/ Thấy hoa cúc nở biết rằng đã là tiết Trùng Dương(Hoa cúc, bài 3- Huyền Quang). Câu thơ của Huyền Quang ẩn ý sâu xa rằng ông sống trong núi, xa lánh cõi trần tục để tu tập đạt đến cái tâm tĩnh lặng, thanh tịnh của nhà tu hành không vướng bận trần tục, đến ngay lịch của loài người bên ngoài xã hội kia cũng không có, chỉ dùng lịch thiên nhiên thì có nghĩa là sống lâu lắm trong núi rồi, đắc đạo rồi, thoát tục rồi, lên cảnh giới Niết Bàn rồi. Hình ảnh này ẩn dụ phương pháp tu hành của thiền sư. Khi thiền sư muốn đạt đến trạng thái tâm không thì tất nhiên, thời gian đối với họ như ngừng trôi, rất chậm chạp, hoặc thời gian tuần hoàn, như tư tưởng luân hồi của Phật giáo. Như vậy, chất thơ của Huyền Quang toát ra từ những hình ảnh thơ vừa gợi mở, ẩn giấu vừa mang tính trong lặng trong cái vắng vẻ, tĩnh lặng của Thiền. Qua thơ ta vừa thấy chân dung người tu hành trong không gian thoát tục đầy vẻ thiên nhiên vừa thấy cả cái được niềm đam mê ―thưởng ngoạn‖ vẻ đẹp của thiên nhiên của một tâm hồn yêu đời, yêu sự sống như chính thiền sư đã viết trong bài phú ―Vịnh Vân Yên‖ (Vịnh Vân Yên tự phú): “Buông niềm trần tục/Náu tới Vân Yên/Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ/Gió tiên đưa đòi bước thần tiên/Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới/Hài thong thả dạo khắp sơn nguyên…‖.

Ứng xử với “thân – tâm”:

Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 7

Con đường trở về với thiên nhiên cũng chính là con đường tìm đến sự thanh tịnh cho thân – tâm của thiền sư, thoát khỏi mọi vướng bận của bụi trần. Với ―thân‖, Huyền Quang đặc biệt đề cao cái ―thân nhàn‖- cái thân ngoài vòng tục luỵ. Đạo Phật xem thân là huyễn ảo và để không bị vật dục cám dỗ, danh lợi quấy rầy thì cách tốt nhất là chủ động tách ―thân‖ ra khỏi xã hội, tự đặt mình giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên. Do đó ta hiểu vì sao

Huyền Quang xem ‗giàu sang như mây nổi‖ và ―lấy chốn Thiền lâm làm nhà cửa‖ (ông vẫn thường nói nhà của ông là nhà trong núi, nhà đá…); bạn bè của nhà sư ―quá nửa là chim chóc‖ rồi mây, gió, trăng, hoa.... Dày công tu luyện nên ông xem ―lòng ta nay đã thành một khối thiền‖. Trong không gian thanh khiết, tĩnh lặng của người ẩn sĩ, thiền sư đã có thể

đánh một giấc mộng mát mẻ trong rừng phong‖ (Ngủ trưa) hay ―Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn‖ (Ngủ ngày), thậm chí có khi còn như ―lãng quên‖ đi tất cả ngoại vật xung quanh mình: ―Sư khểnh trên giường, kinh trước án/Lò tàn, củi lụi, sáng nào hay‖ (Nhà đá). Và từ sự thoải mái đầy bản năng sống ấy, thi sĩ-thiền sư Huyền Quang mới tìm cho mình được những khoảnh khắc thanh nhàn thực sự- điều mà các nhà nho ở ẩn như Nguyễn Trãi- người mà mặc dầu đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn nhưng lúc nào cũng mơ ước, khát khao ―một phút thanh nhàn trong thuở ấy/Thiên kim ước đổi được hay chăng?‖ khó đạt được: ―Thuyền con lướt gió mênh mang/Non xanh nước biếc, thu quang lạnh lùng”; “Từ nay niềm tục thôi vương vấn/Tựa gối an nhàn trước gió đông”…Khi không còn vướng bận bất cứ điều gì Huyền Quang còn ―cho phép‖ bản thân mình thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên. Tuy nhiên cần hiểu đó không hẳn là sự đề cao thân xác hay ca ngợi cuộc sống tươi đẹp với khát vọng tận hưởng cuộc sống ấy mà đó chỉ là cách minh họa cho tinh thần hồn nhiên trong tâm tính thiền sư. Ngồi thiền xong ông ngồi ngắm hoa cúc. Ngắm hoa cúc nở cũng là ngồi thiền; ông ngồi ngắm hoa cho tới khi thấy người ngắm hoa và hoa hai thứ hồn nhiên là một. Kết quả là thiền sư đã ―kiến tính‖ và

―cái thấy‖ của ông về thực tại nở sáng như một đoá hoa:

Người ở trên lầu, hoa dưới sân

Đốt hương ngồi lặng, bỗng quên sầu, Hồn nhiên người vật không tranh cạnh,

So với muôn hoa cúc đứng đầu (Hoa cúc, V).

Có khi cái ―thân nhàn‖ ở Huyền Quang còn gặp gỡ với với tư tưởng Lão-Trang với chủ trương ―vô vi‖, ―phóng nhiệm‖ mà coi nhẹ lí trí của con người. Bài thơ Đề Đạm Thuỷ Tự đã mách bảo chúng ta điều đó. Thiền sư đi chơi qua con đường xe vua đi mà vào am thiền rồi giúp nhà chùa đánh chuông, nhặt hoa rơi: ―Tiện lối xe vua vào vãng Phật/Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi‖.

Với ―tâm‖, Huyền Quang nhiều khi đã đạt tới cái gọi là ―tuệ tâm‖, không mảy may nhiễm chút bụi trần. Làm được điều này tất đạt đến trạng thái tâm thanh tịnh, tâm sáng, tâm tịch diệt: ―Lòng thiền vằng vặc trăng soi giọi/Thế sự hiu hiu gió thổi qua (Vân Yên tự kệ) Các nhà thơ Thiền lớn như Huyền Quang thường chọn cho mình một môi trường để di dưỡng cái tâm hồn

nhiên đó là môi trường thiên nhiên và thường dùng các hình ảnh thiên nhiên để ngụ ý chỉ cái tâm không. Ta bắt gặp một tâm hồn thoáng đãng, tinh tế, đầy chất thơ trong Ngọ thụy, Chu trung, Thạch đá, Nhân sự đề Cứu Lan tự, Yên Tử sơn am cư, Phiếm chu…của Huyền Quang:

- Mưa tạnh, núi khe sạch, Rừng phong một giấc mơ Ngoảnh nhìn đời bụi bặm,

Mở mắt đường say sưa. (Ngủ trưa)

- Nửa gian nhà đá bạn cùng mây (Nhà đá)

- Chi bằng theo bạn về non quách

Núi dựng, non che vạn vạn tầng. (Nhân có việc đề ở chùa Cứu Lan)…

Bản chất của tâm theo nhà Phật là đạt tới tâm không, tâm thanh tịnh, quét sạch mọi níu kéo của cuộc sống. Thiền sư nói lên núi, đến chỗ vắng vẻ, nói giấc ngủ, nói trạng thái tâm trẻ thơ đều là những ẩn dụ, ví von so sánh để diễn đạt tư tưởng về tâm không (tâm hồn đứa trẻ con còn ngây thơ, trong trắng, không vướng bụi đời; giấc ngủ hay mộng cũng là trạng thái tâm không; cảnh núi non xa vắng cũng ẩn dụ thế giới tĩnh lặng của tâm không bị cái huyên náo của đời phá vỡ…).

Để diễn tả cái tâm thanh tịnh, trong trẻo, cái chân tâm đã đạt đạo trong cõi thiền thi của Huyền Quang chúng ta còn thấy nhà thơ sử dụng các hình ảnh, thi liệu từ thiên nhiên như mùa thu, ánh trăng, gió, chim, nước, mây…Qua những áng thi thiền như Nhà đá, Ngủ ngày, Nhà trong núi, Chơi thuyền, Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên…ta thấy những hình ảnh thiên nhiên như mây, chim, gió, mùa thu, trăng, hoa…đều là những ẩn dụ diễn đạt những ngụ ý thiền của tác giả. Cái trong trẻo, lặng lẽ của mùa thu tạo nên không gian bát ngát vô giới hạn và hư không tĩnh lặng kiểu ―trời muôn trượng thẳm làu làu sạch‖ hay ―trời thu xanh ngắt mấy tầng cao‖…đã gợi ra cái bản thể vũ trụ lớn lao không hình sắc, không sinh diệt hằng thường và có mặt khắp mọi nơi. Ánh trăng lại vừa tượng trưng cho trí tuệ Bát Nhã, cho sự viên giác vừa tượng trưng cho cái tâm đã đạt tới chỗ hư không trong suốt. Mây, gió, núi, nước…biểu tượng cho sự hồn nhiên tự tại của vạn vật cũng là sự hồn nhiên của tâm thiền.

Trong số các hình tượng thiên nhiên được sử dụng trong thơ Huyền Quang thì Hoa chiếm tỉ lệ đáng kể (12/24 bài, chiếm 50%) và trong đó thì thiền gia đặc biệt ưu ái cho hai loài hoa có vẻ đẹp tinh khiết, bền vững là hoa mai và hoa cúc. Trong đó hoa mai được nhắc đến 3 lần còn hoa cúc được nhắc tới 10 lần. Về hoa mai có lẽ ấn tượng nhất là trong bài

Hoa Mai‖ khi Huyền Quang viết về cảm nhận đối với loài hoa tinh khiết, gắn liền với mùa xuân này. Phẩm chất của hoa mai ―một mình gội tuyết chốn non sâu‖ cũng nhằm chỉ cái chân tâm của người đạt đạo bền vững trường tồn, không sợ thử thách. Hoa cúc gắn liền với mùa thu và là loài hoa mà theo Huyền Quang ―so với các loài hoa khác thì cúc trội hơn một bậc‖. Có lẽ bởi thế mà thơ ông tràn ngập màu vàng của loài hoa ―ở giậu phía Đông‖ này:

- Vườn xưa sau trước rộ hoa vàng (Hoa cúc, bài I)

- Hoa cúc nở biết trùng dương (Hoa cúc, III)

- Hồn nhiên, người vật không tranh cạnh

So với muôn hoa, cúc đứng đầu (Hoa cúc, V)

- Vườn thu tàn tạ ngàn hoa rụng,

Riêng cúc đông ly vẫn đượm màu (Hoa cúc, VI)…

Chúng ta biết rằng trong số các loài hoa thì thực ra hoa sen mới là loài hoa mang biểu tượng của Phật giáo. Sen trong Phật giáo biểu tượng cho sự thuần khiết và sinh hoá hồn nhiên. Theo kinh Lalitavistara (Kinh Phổ Diệu), phần tâm linh con người thì vô nhiễm, giống như hoa sen mọc trong bùn mà không bị hôi tanh bởi bùn. Nhưng hoa cúc cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh người Việt. Điều này được thể hiện qua những bộ tranh tứ bình ―Tùng Trúc Cúc Mai‖. Hoa cúc là biểu tượng của sự cao quý của sự sống, của sự thịnh vượng và tình cảm yêu thương giữa con người. Cúc thường là biểu tượng quân tử trong văn chương của nhà nho.

Cúc với ý nghĩa là thi liệu văn học xuất hiện ở Việt Nam thì chính là bắt nguồn từ Đào Uyên Minh (Trung Quốc). Dấu vết ảnh hưởng từ hình ảnh hoa cúc của Đào Uyên Minh trong văn học Việt Nam có lẽ bắt đầu từ thế kỉ XIII với bài thơ Qui thanh chướng của thiền sư Phan Trường Nguyên (Thiền uyển tập anh) với câu: ―Thu chí cúc khai một mộ dạng‖ (Thu tới còn riêng một cúc vàng). Kế đến phải kể đến tác phẩm Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ của Trần Thái Tông có nhắc tới ―vô huyền cầm‖ là biểu tượng gắn liền với Đào Uyên Minh. Tuệ Trung trong bài Đối cơ cũng có từ ―hoàng cúc li biên‖. Đến cuối đời Trần thì Cúc của Đào gia đã được ―gieo trồng‖ phổ biến, sâu rộng hơn trên thi đàn Việt Nam do Nho giáo dần thay thế vị trí Phật giáo. Giới văn nhân trí thức Việt Nam như Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Trần Minh Tông, Trần Huệ Khả…đều viết về Hoa cúc. Huyền Quang tôn giả cũng chọn Hoa cúc để gửi gắm những ý nghĩa sâu kín của Thiền. Ngay trong bài mở đầu Huyền Quang đã tìm thấy bóng dáng hoa cúc trong tương quan với tùng, mai và Đào Uyên Minh trong tương quan với hai cao sĩ khác là Tưởng Hủ đời Hán và Hàn Thế Trung đời Tống, những người đã vứt bỏ công danh, ẩn cư tìm niềm vui trong hoa cỏ:

Đường nhà Tưởng Hủ thông gieo gió, Lều ẩn Tây hồ mai gội sương.

Nghĩa khí khác nhau đành khác cảnh, Vườn xưa sau trước rộ hoa vàng

Trở lên, có thể nói với thiền sư Huyền Quang hoa cúc trước hết là một ẩn dụ mang ý nghĩa Phật giáo, biểu tượng cho người ẩn sĩ và sự thanh tao. Đây chính là niềm an nhiên tự tại mà thiền sư Việt Nam thời Lí-Trần luôn muốn hướng đến.

Với tinh thần tìm về thiên nhiên, hòa giải với thiên nhiên, các thiền sư đã bày tỏ được những cảm xúc, những tâm trạng trước thiên nhiên, cuộc đời mang ý vị Thiền và trần tục như kiểu Huyền Quang là điều ta cũng có thể bắt gặp ở một số nhà thơ thiền lớn khác như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông (Hướng thiên nhất lộ, Giang hồ tự thích, Lạng Châu vãn cảnh…)

Như vậy, trở về thiên nhiên cũng là một cách để các thiền sư giải thoát. Và từ đây một mặt thấy được con đường tu tập của thiền sư giữa thiên nhiên, mặt khác lại thấy được nét đẹp khác trong con người thiền sư: tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống.

2.2.1.2. “Tu hành giữa cuộc đời”:

Theo Nguyễn Phạm Hùng “hòa quang đồng trần” là tư tưởng của Lão Tử phát biểu trong Đạo Đức Kinh. Thiền học Trung Hoa đã ảnh hưởng rất lớn tư tưởng này. Nó xâm nhập vào Việt Nam và trở thành một trong những tư tưởng cơ bản của Thiền học Việt Nam. Người tu hành theo tư tưởng này không câu chấp ở những giáo lí gò bó, không bị khuôn khổ vào những công thức, nguyên tắc cứng nhắc của các giới luật mà hành đạo và đạt đạo trong tinh thần tự do, tự tại, tự lực, tự cường‖[54; tr.50].

Với tư tưởng ―hòa quang đồng trần‖ này các thiền sư có thể sống trọn vẹn với cả đời và đạo theo quan điểm ―tùy tục‖, ―tùy duyên‖. Đó là nguồn vui vô tận của người học đạo và hiểu đạo, tạo nên tâm niệm hoan hỉ triền miên. Đem tấm lòng ấy vào đời, thiền sư tự tại hành xử mọi việc, tích cực lo cho dân cho nước. Việc xong thiền sư lại thong dong trở về cuộc sống thiền vị của mình hằng ngày. Họ do đó cũng có thể yêu tình yêu của con người như yêu thiên nhiên, cuộc sống. Có thế họ mới tìm được sự an nhiên, tự tại, vui vẻ đích thực. Đây thực chất là thể hiện phương pháp tu thiền định, người tu thiền hướng đến mục đích đạt đến trạng thái tâm lý bằng không, phá chấp tức là gạt bỏ tất cả những tác động, ảnh hưởng của cuộc đời (tiền tài, vật chất, sắc đẹp), đạt đến cái tâm không, trống rỗng. Cái tâm đạt đạo đó được gọi là tâm Niết Bàn, tâm thanh tịnh. Đó là mục đích tu tập. Câu thơ của Trần Nhân Tông ―Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” có nghĩa là nếu trước cảnh mà lòng trống rỗng, tịch mịch thì không cần hỏi thiền là gì, trạng thái tâm lý bằng không đó chính là thiền đó. Trước mọi cảnh đời (tiền tài, vật chất…), lòng nhà tu hành dửng dưng, không mảy may xúc động. Trước một cảnh buồn hay vui, nhà tu hành đều thản nhiên, tự tại, không buồn, không vui, không lo, không khổ. Nó giống như câu trả lời của Thiền sư Báo Từ Văn Khâm (?-928) trả lời chú tiểu khi tiểu hỏi thế nào là ―bình thường tâm‖: ―Cơm ăn trà uống tuỳ theo thế/Nước uống non xem thích bấy tình‖[115; tr.423].

Những “xao động” đời thường

Đọc thơ Huyền Quang chúng tôi thấy rằng trạng thái ―bình thường tâm‖, cái phương pháp ―tu hành giữa cuộc đời‖ được biểu hiện kín đáo, vi diệu ở nhiều khía cạnh

khác nhau. Trước hết, có thể tìm thấy trong những ―xao động‖ tưởng chừng rất đỗi đời thường ở ông. Những trăn trở, suy tư của ông với tình đời, tình người vẫn rất nặng. Ta ít khi nhận thấy ở đây cái trạng thái cảm nhận Thiền học thiên về thanh tĩnh, yên lặng, trong trẻo. Ta cũng không thể thấy ở thơ ông những biến động, chuyển vận, sôi nổi, xốc vác có tính mạnh bạo phóng cuồng kiểu thơ Trần Tung. Cái mà người đọc cảm nhận được trước hết ở thơ ông là những ―xao động‖, là sự phá vỡ thế cân bằng tĩnh tại, hư vô Thiền học, bằng những màu sắc, hình ảnh, âm thanh của chính thế giới hiện hữu hằng thường xung quanh nhà thơ, trong một tinh thần tiếp nhận hiện thực như nó vốn có. Nỗi xao động đó được thể hiện ra bằng nhiều dáng vẻ khác nhau, dưới nhiều hình thức khác nhau, đa dạng và sinh động, đầy hình ảnh và chất thơ. Đó là trạng thái phiêu du của nhà thơ khi để tâm hồn lướt trên con thuyền cô độc giữa mênh mông trời nước, đi tới vô cùng vô tận. Ở đây cái thực và cái ảo hoà lẫn vào nhau, nương tựa nhau, như chính tâm trạng nhà thơ đầy xao động, giằng xé giữa cảnh đời và cảnh đạo, giữa sắc và không, hữu và vô:

Thuyền con một khách hải hồ, Bờ lau lướt tới, gió xô xạc xào, Mịt mờ con nước dâng cao,

Chim âu một cánh trắng phau cuối. (Chu trung)

Ta nhớ đến phép ẩn dụ trong Thiền tông qua câu nói nổi tiếng của Thanh Nguyên Duy Tín: ―khi chưa học Thiền, thấy núi là núi thấy sông là sông; khi đang học Thiền thấy núi chẳng phải là núi, sông chẳng phải là sông; đến khi học xong thì lại thấy núi là núi, sông là sông". Mọi sự lại trở về bản lai ban đầu. Bởi thế ta cũng có thể hiểu được những ―xao động‖, ―dằn vặt‖ trên ở Huyền Quang không phải vì ông còn ―vương vấn niềm tục luỵ‖ (Không vướng tục tức là không tham, sân, si về vật chất, sắc dục, bổng lộc) hay còn chấp vào một sự lựa chọn nào đó mà đó là những cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ tinh tế, nhạy cảm trước tình đời, tình người mà thôi. Và có lẽ đó lí do khiến thơ ông chứa đựng những trạng thái mâu thuẫn. Đó là sự giằng xé, xao động của lòng ông khi mà sự vang động của cuộc đời thế tục đã khiến ông phải xót xa, buồn bã, dằn vặt, trăn trở? Vậy thì ông chưa thành nhà tu hành chân chính, vẫn còn có dáng dấp của nhà nho chăng?. Cái xao động, trăn trở đó bộc lộ ra ở tứ thơ, ngôn ngữ thơ. Ông coi đời là ―cõi đời bụi bặm‖ (Ngọ thuỵ), ông xem ―giàu sang như mây nổi‖ (Tặng sĩ đồ đệ tử)…Ông tìm về với ―khe núi sạch làu‖ (Ngọ thuỵ), với ―am thiền mát lạnh‖ (Yên Tử sơn am cư), với ―núi non trùng điệp‖ (Nhân sự đề Cửu Lan tự), với ―chè thơm một chén, gió thông một giường‖ (Tặng sĩ đồ đệ tử)…Ông quả quyết nói: ―lòng ta nay đã hoàn toàn Thiền rồi‖ (Sơn vũ), ―từ này ta không còn vương vấn niềm tục luỵ‖ (Đề Động hiên Đàn Việt giả sơn)…song sự

Xem tất cả 190 trang.

Ngày đăng: 18/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí