Ngay từ khi mới gặp nhau chàng trai người Tày đã gửi lời tỏ tình mơ ước được gắn bó như con chim chích bay về “năng táng kíc rườn nàng”, “chắp pioai giàn” và mong muốn lớn nhất là được bay vào ngồi “ năng giường chang rườn noọng”:
Lừ đảy thêm lừ đáy
Nộc chích la mưa chắp pioai thích
Ước lừ đảy mừa năng táng kích rườn nàng Chíp la mừa chắp pioai giàn
Ước lừa vằn pi đảy mừa năng giường chang rườn nọng. Làm sao được làm sao
Làm sao được như con chim chích Bay về đậu cuối “thích” nhà em Chim chích đậu cuối giàn
Ước sao bay vào nhà em được).
[8.Tr.56]
Có thể nói qua lời ca của chàng trai ta thấy không gian sinh hoạt quen thuộc đối với người Tày là không gian của nhà sàn, mà “Táng kích” hay “Thích ma” là nơi gẫn gũi nhất trong cuộc sống sinh hoạt thường nhật của họ. “Táng kích” là nơi trang trọng ở gian trên cùng, gần cửa sổ của nhà sàn có thể nhìn ngắm ra không gian rộng lớn ở phía trước. Đó là nơi chỉ có khách quý, những người cao tuổi, đàn ông mới được ngồi trên đó.
Đặc biệt hơn trong lời tỏ tình khéo léo của chàng trai ví “nọng” như chính ngôi nhà của mình nên chàng muốn gắn bó suốt đời và không muốn đi tìm ai hơn nữa. Ngôi nhà hiện lên vừa cao, vừa xa vừa gần và dường như đã trở thành biểu tượng trong tâm thức của người Tày:
Có thể bạn quan tâm!
- Biện Pháp Điệp Ngữ Tu Từ (Công Thức Trùng Điệp)
- Thời Gian Nghệ Thuật Trong Hát Iếu Là Thời Gian Hiện Tại.
- Thời Gian Nghệ Thuật Trong Hát Iếu Là Thời Gian Hiện Thực.
- Lục Văn Pảo (Sưu Tầm Và Biên Soạn), (1994), Lượn Cọi, Nxb Văn Hoá Dân Tộc, H.
- Một Số Bài Hát Iếu “Phặt Phòng”(Dậy Sóng)
- Một Số Bài Hát“Iếu Tạ” (Iếu Đố) Và “Iếu Sỏi"(Iếu Kháy)
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Nhà anh ở trên trời Vợ anh ở trên mây
Tất cả còn trông chờ em đó
nhận:
Nhà anh tựa thân em Vợ anh tựa bóng em
Cho anh đi tìm ai hơn nữa.
[8.Tr.50]
Cũng trong ngôi nhà, tình yêu chân chính mới được khẳng định và đón
Áo chàm tay xanh thắm
Anh đứng trước bàn tổ nhà em, Cha mẹ em mới gọi anh là rể Áo chàm xen lụa vàng
Anh đứng giữa nhà em,
Thì em mới gọi anh là người chung thuỷ.
[8.Tr.56]
Ngoài ra chúng tôi còn tập hợp được thêm hình ảnh về con đường (76/
216) bài sử dụng hình ảnh “con đường”. Đó là một không gian vừa rộng mở vừa khái quát, rộng mở vì ta bắt gặp trên con đường sinh hoạt quen thuộc đó là những ngả đường trải rộng, quanh co, lắt léo nhưng cuối cùng mọi ngả đường đều hội tụ, trở về lối đi chính duy nhất để vào được bản. Nhân vật “pi” (chàng trai) muốn đi vòng qua quãng đường vừa xa xôi vừa cách trở ấy đế bày tỏ nỗi lòng của mình. Anh mượn không gian rộng lớn của con đường để cho anh được: “Phác tôi én nhạn mừa nòn”, “Tôi luồng mừa tó nả chảu”, anh muốn qua những con đường dài, quanh co ấy để thành đôi én nhạn, đôi rồng cùng em sánh bước:
Tham thíp qué tàng tạu, cảu thíp qué tàng tom Tham thíp thong tàng ngạ ba mà cáp
Tàng hăư tàng mừa me, qué hăư qué mừa tiên Tàng hăư tàng chính tuyên khảu bản
Hẳư pi phác tôi én nhạn mừa nòn
Hẳư pi phác tôi luồng còn mừa tó nả chảu”…
(Ba mươi ngả đườn vòng, chín mươi ngả đường quanh Ba mươi hai ngã ba đường gặp nhau
Đường nào về quê mẹ, đường nào đường lên tiên Đường nào là đường chính nhất vào bản
Cho anh gửi đôi nhạn về cùng Cho anh gửi đôi rồng về ở).
[40.Tr.26]
Cũng có lúc không gian của con đường hiện lên là không gian thực gần gũi, song con đường cũng chứa đựng tâm trạng, cảm nhận, sự đánh giá của con người:
Đường người rải cây nứa ống dài Đường người rải cây piao ống đẹp Đường người rải cây gai chọc chân Đường người rải đá đi bị vấp.
[4: 68]
Từ không gian sinh hoạt trong lời ca Iếu, ít nhiều chúng ta hiểu thêm được phần nào về phong tục tập quán, nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống và quan niệm về cuộc sống của người Tày nơi đây. Họ luôn gắn bó thân thiết với bản làng, gia đình, dòng tộc, yêu quý nếp sống, sinh hoạt văn hoá cộng đồng,
Cuộc sống của họ cũng chân chất, thực tế không hề triết lí, suy tưởng cao xa. Họ vui với cảnh nghèo nàn, những thành quả mình tạo lập và mơ ước cảnh thanh bình, cốt sao có thể yêu thương gắn bó, đoàn kết. Tâm hồn họ sáng lên vẻ đẹp chân thực, mộc mạc, bình dị như cuộc sống trong lành mà họ vốn có.
3.3.2.2. Không gian thiên nhiên
Thiên nhiên rộng lớn, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi là không gian của cảnh vật ven rừng, bờ suối, núi đồi rộng lớn đến không gian của sinh sống của tự nhiên là bướm, là chim, là hoa…Những không gian ấy đã trở nên thân thiết và quen thuộc từ bao đời nay. Mang trong mình vẻ đẹp của tự
nhiên phong phú và đa dạng, không gian thiên nhiên đã trở thành đối tượng để con người đối chiếu, bộc lộ tâm trạng trong những bài Hát Iếu. Và xuyên suốt trong những lời ca ấy là không gian thiên nhiên gần gũi với đồng bào, đậm chất trữ tình sâu sắc:
Bướm trắng ơi bướm trắng Bay về đậu cây đào phía trên Cành chuyền cành đi mãi
Đôi bướm bay mãi về phía trước Hàng năm xuống thiên hạ chơi hoa Mọi thứ hoa rừng bướm đều đến
Cùng nhau chơi hoa khắp bốn phương.
[4.Tr.52]
Hát Iếu cũng như các làn điệu dân ca khác đều mang trong mình vẻ đẹp của thiên nhiên - thiên nhiên hiện lên với đủ màu sắc chân thật như nó vốn có. Song đằng sau vẻ đẹp ấy thường là nơi gửi gắm, chứa đựng tâm trạng con người, gắn với chức năng giao duyên, thổ lộ, bày tỏ tình cảm, đặc biệt là tình cảm đôi lứa: Hoa phặc phiền nở mặt đá cuống đen
Chiều đến có đôi ương vỗ cánh Hai tin người mặt đá mong mỏi Hai hồn ước lấy nhau chẳng được.
[4.Tr.120]
Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con người những nỗi nhớ niềm thương tha thiết: Hoa bưởi nở trong vườn trắng xoá
Hoa nở còn có chủ đứng trông Muốn bẻ cũng lo gai
Muốn chặt cũng lo chủ nhà mắng Cúi mặt dước gốc hoa về không Tới nhà nghĩ tới hoa càng nhớ.
[40.Tr.53]
Không chỉ vậy, con người khi đứng trước thiên nhiên hùng vĩ dù nhỏ bé, yếu đuối nhưng họ vẫn vững vàng cùng nhau vượt qua như cuộc sống hạnh phúc trắc trở gian nan qua cơn bão táp rồi lại bình yên:
Ngắm đến dốc to đại ngàn
Hai bên núi đá nghiêng xuống che Đôi ta cùng đi qua không được Dốc nhỏ đi quanh về co
Dốc này đi uốn về khúc
Hai tay níu gốc cây to lên dốc Leo dốc không kêu nặng kêu mệt Dốc này leo cả đời thêm sức Leo dốc không kêu ca
Dốc này lên bình an thiên hạ.
[4.Tr.70]
Thiên nhiên chở che cho con người song thiên nhiên cũng dữ dội và đáng sợ, đó là không gian của những con đường sâu hun hút quen thuộc nơi rừng thiêng nước độc “Đông luông thái lẻ”, “Đông ké pù phia”:
Tàng cần lộc đông luong thái lẻ Tàng cần lộc đông ké pù phia Mờ xít én bân mà mí đảy
(Đường người rậm núi cao vực sâu Đường ngnười rậm núi sâu rừng già Thuở xưa én bay về không được)
[5.Tr.6,7]
Trong không gian mịt mù của tự nhiên tiếng gió xoáy làn mây, gầm trên nóc, rít bên tai…tạo cho con người cảm giác sợ sệt:
Tiếng gió xoáy làn mây Tiếng gió gầm trên nóc
Gió mây gầm bến thông Gió rít trên ngọn cây Thứ gì rát bên tai
Thức giấc giữa mịt mùng Tiếng gió gầm trên nóc
[40.Tr.6]
Mặc dù thiên nhiên dữ dội, nhưng có lúc không gian thiên nhiên trong lời ca Iếu như có sự hoà hợp tâm trạng con người:
Buổi sáng trời lất phất sương bay Lòng em muốn bằng như mặt nước [40.Tr.48]
Như vậy, Không gian nghệ thuật trong Hát Iếu luôn có sự đan xen giữa không gian sinh hoạt với không gian thiên nhiên,… nói cách khác đó là không gian vật lý đan xen với không gian tâm lý. Qua không gian nghệ thuật này chúng ta thấy được tâm trạng con người được bộc lộ với nhiều cung bậc, cảm xúc khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong đời sống tình cảm; gián tiếp bày tỏ hoàn cảnh, đời sống riêng tư, đời sống gia đình, bản làng và xã hội với phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào Tày.
Tiểu kết:
Hát Iếu mang những đặc trưng chung của dân ca trữ tình cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật như thể thơ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật… giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về giá trị Hát Iếu của địa phương Bắc Quang - Hà Giang; Cũng như đi sâu vào việc khám phá vẻ đẹp riêng của làn điệu dân ca dân tộc Tày.
Thể thơ trong Hát Iếu là sự kế thừa thể thơ thất ngôn có khuôn phép, quy định của dân tộc; lại vừa có sự dung nạp của thể thơ tự do, điều này đã tạo cho lời ca Iếu có thể diễn đạt một cách sinh động và phong phú đời sống, tâm tư,
tình cảm của đồng bào Tày. Hơn nữa trong lời ca Iếu có sự đan xen, thâm nhập giữa các yếu tố của lời nói vào lời hát nên gây được sự chú ý của người hát cũng như người nghe. Họ đắm chìm vào lời ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm bắt được ý tình được thể hiện qua ngôn từ. Điều này cũng lý giải vì sao trong khúc ca Iếu lại vắng bóng, nghèo nàn những nhạc cụ dân gian. Yếu tố, vai trò của nhạc cụ là hầu như không có, mà nổi bật lên là vai trò của lời ca Iếu. Qua nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật như các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, không gian và thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn khái quát toàn diện về giá trị của dân ca Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang và có điều kiện đi sâu vào khám phá, tìm hiểu những màu sắc riêng của Hát Iếu.
KẾT LUẬN
Bắc Quang là một huyện miền núi, cửa ngõ đầu tiên của Tỉnh Hà Giang, Sau nhiều lần điều chỉnh, thay đổi địa danh địa giới các đơn vị hành chính, từ năm 2005 đến nay huyện lại chia tách ra thành hai huyện là Bắc Quang và Quang Bình. Mặc dù có sự thay đổi về địa vực nhưng cư dân cơ bản không bị xáo trộn. Cho đến nay, dân tộc Tày ở Bắc Quang (cũ) vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hoá bản địa. Qua việc tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang trên phương diện nội dung và nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng huyện Bắc Quang của tỉnh Hà giang là một tiểu vùng văn hoá dân gian giàu bản sắc trong đó có tiếng hát giao duyên - Hát Iếu vừa mang những nét chung vừa có nét sắc thái địa phương. Song hình thức sinh hoạt văn hoá này đang bị mai một dần. Nhờ có sự quan tâm của Đảng và nhà nước, hiện nay kho tàng văn hoá dân gian của các dân tộc đang dần được khôi phục.
Trong điều kiện và khả năng có thể, chúng tôi tìm hiểu những giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của loại hình sinh hoạt văn hoá Hát Iếu và bước đầu rút ra một số kết luận sau:
1. Kho tàng văn học dân gian của dân tộc Tày vô cùng phong phú và đa dạng, cùng là hát lượn nhưng mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi khu vực lại có những tên gọi và giai điệu, tiết tấu khác nhau, nội dung có thể gần giống như nhau nhưng mỗi làng, mỗi bản lại có sự thay đổi chủ đề, chữ nghĩa để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh giao tiếp. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang là một loại dân ca giao duyên trữ tình đặc sắc vừa có tính dân gian vừa có tính thành văn. Nó là văn học dân gian bởi phương thức sáng tác lưu truyền của nó là truyền miệng và được nhuận sắc bởi tập thể. Nó là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian bởi sự gắn bó sâu sắc với đời sống lao động sinh hoạt của họ. Đối với người Tày Bắc Quang cũng nhờ Hát Iếu mà bao chàng trai cô gái nên vợ, nên chồng; cũng vì câu hát mà bao người đã có gia đình chạy theo tiếng gọi của