Biện Pháp Điệp Ngữ Tu Từ (Công Thức Trùng Điệp)

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng: “So sánh là một phương pháp nghệ thuật độc đáo của tục ngữ, ca dao dân ca, là phương pháp chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng tình cảm, so sánh cũng là một lối cụ thể hoá những hình tượng làm cho lời thêm ý nhị tình tứ và thắm thiết”.

Chúng ta biết rằng nghệ thuật so sánh là phương thức nghệ thuật chủ yếu của con người để nhận thức và phản ánh thế giới. So sánh tu từ cũng là một trong những công cụ đắc lực giúp chúng ta nhận thức một cách sâu sắc về thế giới tình cảm đa sắc màu của cuộc sống, đặc biệt là sắc màu trong thế giới của tình yêu đôi lứa. Trong bộ phận văn học dân gian đa dạng và phong phú của các dân tộc Việt Nam thì dân ca Tày là một trong những loại hình dân ca có cấu trúc so sánh đặc biệt và tạo nên nhiều nét bản sắc riêng.

Theo Giáo sư Đinh Trọng Lạc thì: “So sánh tu từ là một iện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”[28.Tr.154].

Từ trước tới nay có rất nhiều cách phân loại cấu trúc trong ca dao dân ca, nhưng nhìn chung có thể phân loại chúng thành hai dạng như sau:

- So sánh trực tiếp ( so sánh nổi)

- So sánh gián tiếp (so sánh chìm, kết cấu đối ngẫu)

3.2.1.1. So sánh trực tiếp

Hát Iếu đã sử dụng nghệ thuật so sánh trực tiếp như một biện pháp nghệ thuật đắc lực để thể hiện mọi cung bậc tình cảm đôi lứa thuở ban đầu rất phong phú và đa dạng.

Chúng ta vẫn thường gặp sự hiện diện của các liên từ như: như, như thể, như là, tựa, tựa như, giống, giống như, khác nào...Mức độ sử dụng so sánh tu từ trong Hát Iếu tuy không dày đặc nhưng qua quá trình khảo sát 426 bài Hát Iếu thì có 20 hình ảnh “anh” (chàng trai), 23 hình ảnh “em” (cô gái) được so sánh trực tiếp.

Về cấu trúc so sánh, Hát Iếu cũng mang những nét chung của dân ca người Việt như một số môtip thường gặp: em như, anh như, hai ta như… hay tất cả trạng thái tình cảm của con người: yêu thương, giận hờn, nhớ nhung, vui sướng, khổ đau…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Trong ca dao người Việt hình ảnh “em” và “anh” luôn xuất hiện với nhiều sắc thái khác nhau. Chẳng hạn như cách nói, cách ví von so sánh đối lập đã tạo nên một công thức Folklore quen thuộc của dân ca với cấu trúc câu thơ cân xứng nhằm lột tả tình cảm, tâm lý của nhân vật:

- Em như chim chích bên đường Mà như chim phượng vẫy vùng là anh.

Hát Iếu ở Bắc Quang Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật - 13

- Phượng kia bạn phượng mới cân Phượng đâu có cần chiền chiện xấu xa

Chiền chiện đậu gốc cỏ gà

Dám đâu cùng phượng bạn bè thấp cao.

[54.Tr.245]

Trong Hát Iếu chúng ta gặp cách nói ví von đối lập qua lời hát của chàng trai. Chàng trai ví thân mình tầm thường như “Nộc chích”, “nộc dùng” làm sao xứng với “Phượng vàng”, “én nhạn”…cao quý:

Nộc chích pạu phượng vàng lừ đảng Nộc dùng pạu én nhạn mất thân

(Chim ri sao dám bạn với phượng hoàng Chim cút sao dám làm bạn chim én đang bay).

[40.Tr. 5]

Về phương diện hình ảnh so sánh, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều hình ảnh được so sánh trực tiếp trong Hát Iếu. Sau đây là một số hình ảnh tiêu biểu mà chúng tôi tiến hành thống kê được như sau:

Nói về thân phận của người con gái trong ca dao chúng ta thường thấy “thân em” được so sánh với những hình ảnh đẹp và mang tính chất ước lệ như:

Thân em như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như cây quế giữa rừng…nhưng thường là không có quyền quyết định cho số phận của mình.

Còn với “Thân noọng” trong Hát Iếu cũng không kém phần. “Thân noọng” được ví như: “Đuông bióoc cài khe nhả”- bông hoa lài trên cỏ, bông hoa rặm vương trên áo anh, là bông hoa hẩm hiu chứ không phải là bông hoa đẹp, hoa thơm anh muốn:

Thân noọng pân đuông bióoc cài khe nhả Bióoc may là phống lả chắng nhằng

Mí thúc đuông bióoc khằm pi lọi

Mí thúc đuông bióoc thỏi pi chương

Pi mừa chương co bióoc cuông rườn hẳư lung. (Thân em tựa hoa lài trên dặm cỏ

Hoa nở rồi chắc nở được không Hoa này là nở muộn mới còn Không phải bông hoa thơm anh nhớ

Không phải bông hoa thắm anh chăm Anh về chăm bông hoa nhà cho đẹp)

[40.Tr.50]

Đôi khi “Thân noọng” trong lời ca Iếu được đem so sánh với những hình ảnh chân thật nhưng có phần cứng rắn, tự quyết hơn:

Thân noọng pân co làng chắng piúc Tơn thâng đạo phua luc noọng puồn Thân noọng pân co phúc chắng ương Tơn thâng đạo giảo lườn chắng nái

Nghĩa là:


Thân em như cây cau mới trồng Nói đến chuyện chồng con em ngại Thân em như cây san là mới ươm

Nói đến chuyện cửa nhà em chán

[8.Tr.18]

So sánh vốn là kết quả của phép đối chiếu vì vậy mà chúng thường thấy hình ảnh so sánh là những hình ảnh gần gũi, thân thương, quen thuộc nhất; Trong tình yêu cũng vậy, chàng trai khi gặp được người tâm đầu ý hợp với mình thì tất cả đều thật gắn bó sâu sắc, chàng coi “noọng” chính là “rườn” của mình: Rườn pi là noọng á

Mả pi là noọng mằư

Hẳư pi kết cần hăư tay noọng (Nhà anh tựa thân em

Vợ anh tựa bóng em

Cho anh đi tìm ai hơn nữa)

[8.tr.18]

Trong tình cảm lứa đôi, những hình ảnh so sánh biểu hiện nỗi nhớ mong cũng để lại dấu ấn lẻ bạn. Nhân vật trữ tình so sánh nỗi nhớ mong của mình như mong “Hai thíp hả”- trăng tròn giữa tháng, và nỗi lòng trơ trọi như “Tôi thú thiểu kha”- chiếc đũa lẻ đôi.

Bươn hăn nả chụ cáu bươn đai Tông bạn mọ tông hai thíp hả Tông bạn mà hăn nả khào bang Cổm hua lồng giường chang là dú Lọi lọi mọ tôi thú thiểu kha

Tôi thú thiểu kha cụng mọ thoong thinh là thiếu bạn (Thoáng thấy mặt bạn thoáng không

Mong bạn như mong trăng giữa tháng Ngóng bạn chẳng thấy bạn xinh tươi Cúi mặt xuống giữa giường ta ở

Trơ trọi như chiếc đũa lẻ đôi

Chiếc đũa lẻ đôi như đôi ta lẻ bạn).

[40.Tr.47]

Nỗi buồn của cô gái khi chia cách trong tình yêu được so sánh như:

Noọng puồn toọng pân ỏi lip thuôn

Noọng puồn giá pân cưa cuông lừa tan đởi nặm. (Em buồn trơ như nhánh mía trong vườn

Em buồn như chiếc thuyền muối tan trong nước).

[40.Tr47-48]

Rất nhiều hình ảnh so sánh được hiện lên trong lời ca Iếu, Dù là hoa, là cây, là chim, là thuyền…Tất cả đều được đặt trong sự đối lập hay tương đồng để tìm ra nét khác biệt hay tiếng đồng vọng trong tâm hồn con người mà thôi. Hơn nữa cách so sánh như vậy cũng phản ánh được những sắc thái tình cảm, tâm trạng của các cô gái chàng trai Tày đa dạng và phong phú mà chân thực, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thường.

3.2.1.2. So sánh gián tiếp

So sánh gián tiếp là phương thức nghệ thuật chiếm đa số trong những lời hát của dân ca giao duyên nói chung, dân ca Iếu nói riêng. Việc đối chiếu nét tương đồng giữa hiện tượng thiên nhiên, cảnh vật với trạng thái tình cảm của con người, có tác dụng làm nổi bật tâm trạng đa sắc màu khó nắm bắt của tâm hồn người. Như vậy nét tương đồng trong bức tranh miêu tả thiên nhiên với các hình ảnh trong đời sống con người tạo nên sự nhất quán trong tư tưởng cảm xúc và ý đồ nghệ thuật. Trong Hát Iếu, bức tranh thiên nhiên ở đây không đơn thuần là miêu tả vẻ đẹp của nó mà thường là đằng sau đó là biểu tượng của những trạng thái, tình cảm con người với đầy đủ mọi cung bậc đa dạng, phong phú.

Lối nói trong Hát Iếu là lối nói giản dị và thường gắn bó với thiên nhiên, cảnh vật trong cuộc sống lao động, sinh hoạt của con người. Đó là hình ảnh của núi non, đồng ruộng, chim cá, trâu ngựa…ví như câu hát của chàng trai mượn hình ảnh nặm noòng (nước Lũ) để bày tỏ nỗi lòng của mình. Khi mùa xuân đi

qua, vào tháng hai (chiêng thong) thì cũng là lúc người yêu bỏ đi lấy chồng. Qua cách so sánh giữa hình ảnh của con cá xuôi dòng nước cạn đi ra bể lớn bình yên bỏ lại một mình “Tả điêu” bông hoa tím bơ vơ trơ trọi giữa dòng nước lũ ngập tràn như chính tâm trạng của chàng trai đang nổi sóng lòng cuộn xoáy:

Chiêng thong nặm noòng ỏi lup thuôn Nặm bốc pioa lồng phoòng đưởi ngươc Tả điêu co bióc lục luôc khác loay

Cạy noọng đảy phua mí đay mí chứ (Giêng hai nước lũ nhỏ ngập cồn Nước cạn cá xuôi dòng đi mất

Bỏ mình bông hoa tím khác trôi

Cậy em được chồng sang không nhớ.)

[8.Tr. 29]

Có thể nói nhiều hình ảnh thiên nhiên đã trở thành biểu tượng trong tâm thức của người Tày như hình ảnh của bông hoa Phặc phiền (vắc viền), hoa Mạ, hoa gạo, con chim khẳm khắc, chim pắp páng, én ương, loan phượng, dòng nước, khe suối, con thuyền, bến nước…

Đây là hình con chim Pắp Páng. Người Tày Bắc Quang vẫn kể cho nhau nghe câu chuyện về con chim Pắp Páng hay kêu vào những đêm mùa đông lạnh giá. Ngày xưa có hai anh em mồ côi cả cha lẫn mẹ lại rất nghèo đói, mùa đông tới hai anh em chỉ có đúng một tấm chăn nhỏ rách nát, đắp được cho người này lại thò người kia ra. Suốt đêm, hai anh em nhường nhau “ Mằư pắc cau páng” - mày che tao đắp. Vì rét quá cả hai anh em đều chết và biến thành con chim “Pắp Páng”. Trong lời ca Iếu chàng trai đã dùng hình ảnh của con chim Pắp Páng để bày tỏ lời nói gián tiếp về thân phận của mình không thể sánh được với người khác: Pắp Páng loọng táng thẳm pích khiêu

Chiêm ỷ pi nòn điêu mại quén

Mí giảm pạu nộc én trang hả trang hao Nộc én bân khảm chào khôn ước

Bióoc đay chào lọn lươc chung quanh Nộc chích bân khát mèng ngoại nooc. (Pắp páng gọi cửa hang cánh xanh Từ nhỏ anh ngủ riêng ngon giấc Không dám bạn chim én trời cao

Hoa đẹp người ta đã rào quanh Chim chích bay liệng ngoài rã cánh).

[8.Tr.22]

Hay: Hoa gạo nở trên cây đỏ thẫm Hoa vông nở trên cành đỏ tươi Hoa coóng nở trong khe đỏ thắm

Vàng anh đậu ngọn diễn hót thương Vợ anh ngồi đọc thư bên cửa

Gối hoa động đến tay không màng Nước cạn bỏ bãi cát bên bờ

Nhớ bạn giữa canh khuya gà gáy Sao khuất làn mây trắng đi nằm Nước mắt rơi gối hoa dàn giụa.

[8.Tr.44]

Thiên nhiên có lúc thật gần gũi, thể hiện được tâm trạng của bao chàng trai cô gái Tày khi bước vào tuổi yêu đương:

Hoa đất và hoa xuân Không thành thì gần chút Mai sau hoa quá thì

Còn đâu yêu được nữa.


Đêm xuống khắp làng trên Đêm xuống khắp mường dưới Đêm xuống có trăng rằm

Họ yêu nhau khắp chốn.

[40.Tr. 3-4]

Có lúc thiên nhiên diễn đạt lời trách móc thâm thuý của chàng trai:

Trồng chuối sao không chọn đất đen Lấy chồng sao không nhằm trong bụng Bây giờ mới than thở với ta

Bao giờ kết bạn hoa cho khỏi.

[8.Tr. 61]

Hình thức so sánh gián tiếp trên đã làm nổi bật trạng thái tình cảm của con người trước thiên nhiên. Cảnh vật tạo nên chất thơ mộc mạc, chân thật, giản dị nhưng lại giàu tính biểu tượng. Có thể nói rằng Hát Iếu luôn tràn ngập hình ảnh thiên nhiên tạo nên những công thức dân ca của dân tộc mình, đó là những hoa, những bướm, những chim, cây cầu, con đường…và hầu hết hình tượng đó đều mang một ý nghĩa nhất định. Nó vừa như một sự so sánh ngầm, vừa như một ẩn dụ phù hợp với tâm trạng của nhân vật muốn bày tỏ tư tưởng, tình cảm của mình. Dùng thiên nhiên, cảnh vật để đối chiếu, thể hiện sự phong phú đa dạng trong đời sống tình cảm của con người là lối diễn đạt quen thuộc của dân gian. Song với mỗi một dân tộc đều có quan niệm thẩm mĩ thể qua nghệ thuật so sánh khác nhau.Với người Tày Bắc Quang là tất cả những gì gần gũi, thân thiết, mộc mạc, đơn sơ giữa đại ngàn thiên nhiên sừng sững vốn có.

Qua nghệ thuật so sánh, chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn, trí tưởng tượng đặc biệt sáng tạo cũng như những nét sinh hoạt văn hoá, phong cách đặc thù rất riêng của dân tộc; Thấy được những giá trị nhận thức có giá trị mĩ cao trong đời sống tinh thần của đồng bào Tày nơi đây.

3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp)

Điệp ngữ (còn gọi: lặp): Là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe”[28. Tr.93].

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí