Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ


thành một tập hợp – sản nghiệp – và tập hợp này tồn tại độc lập với các quyền tài sản đó. Tài sản có thể được mua bán, sử dụng, hao mòn, thậm chí biến mất nhưng sản nghiệp vẫn được duy trì. Do đó, một chủ nợ không có bảo đảm chỉ có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ tài sản nào của người mắc nợ ở thời điểm kê biên mà sẽ không có quyền này đối với những tài sản đã chuyển nhượng trước khi đến hạn đòi. Mặt khác, cần chú ý rằng sản nghiệp không chỉ là tài sản hiện có mà nó còn bao gồm cả những tài sản sẽ có của chủ sở hữu.

Tài sản nợ thuộc về sản nghiệp là tất cả những nghĩa vụ tài sản của một doanh nghiệp. Hay nói một cách đơn giản hơn đã là những gì còn lại của khối tài sản sau khi đã trừ đi các giá trị của các nghĩa vụ tài sản.

Trong sản nghiệp thương mại phải kể đến các yếu tố sau: mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ; tên thương mại; biển hiệu; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh và các quyền tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ...

Mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ là kết quả của những nỗ lực phát huy tài năng và sự khéo léo của thương nhân nhằm thu hút khách hàng để tiêu thụ hàng hóa mà mình sản xuất. Sự phát triển của mạng lưới tiêu thụ hàng hóa hay cung ứng dịch vụ lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan (tình hình kinh tế, xã hội của quốc gia và khu vực; thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng, thời điểm kinh doanh, tốc độ đô thị hóa, điều kiện tự nhiên, môi trường...) cũng như yếu tố chủ quan (sự nhạy bén, chính sách maketing, uy tín và thương hiệu....) [8, tr.168]

Tên thương mại là tên dùng trong giao dịch của thương nhân. Tên thương mại là một yếu tố của sản nghiệp thương mại và có thể chuyển nhượng. Ở các nước có nền kinh tế thương mại phát triển, có một số tên thương mại được định giá rất cao.


Biển hiệu là dấu hiệu gắn liền với cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giúp phân biệt cơ sở này với cơ sở khác. Biển hiệu bao gồm rất nhiều các thành tố khác nhau, trong đó có thể có tên thương mại và nhãn hiệu. Nhãn hiệu là dấu hiệu sử dụng để phân biệt sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp với sản phẩm/dịch vụ của những chủ thể khác.

Như vậy, sản nghiệp thương mại không đơn thuần chỉ bao gồm các tài sản là vật có thực của doanh nghiệp. Vì vậy, người ta có thể coi việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại như là góp vốn bằng vật. Đồng thời, sản nghiệp thương mại mặc dù có các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ nhưng nó lại bao gồm cả các tài vật. Chính vì vậy, người ta thường tách việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại thành một mục riêng khác với việc góp vốn vật. Trong đó, việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại đối với các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ cần phải tuân theo những quy định của Luật sở hữu trí tuệ.

Tri thức. Ngày nay, người ta thường nhấn mạnh tới tài sản trí tuệ hay sở hữu trí tuệ. Chúng được xem là bộ phận quan trọng của tri thức. Điều đó có nghĩa là khái niệm tài sản và khái niệm tri thức có sự giao thoa, nhưng không trùng khít với nhau. Nếu định nghĩa tri thức trên phương diện hành vi có thể quan sát được thì tri thức là khả năng của một cá nhân hay một nhóm thực hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể được điển chế hóa và có thể sao chụp hoặc có thể ở dạng ẩn không thể ghi chụp khi ở trong đầu của các cá nhân hoặc các chu trình hoạt động của các doanh nghiệp [9, tr. 27]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Những tri thức ẩn không thể điển chế hóa được, nên khó có thể mua và bán. Tri thức ẩn biểu hiện ở vốn, nhân lực và tổ chức, nên mang đến cách thức góp vốn khác với cách thức góp vốn bằng tài sản. Người góp vốn bằng tri thức


Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 4

phải bảo đảm rằng mang tri thức của mình ra phục vụ một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích của doanh nghiệp, có nghĩa là người đó phải thực hiện một nghĩa vụ mẫn cán và trung thực cho trái chủ là doanh nghiệp do chính người đó cam kết lập ra.

Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức – một khả năng trừu tượng, sẽ mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính trị giá phần vốn góp để chia sẻ quyền lợi trong doanh nghiệp; chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người góp vốn. Những khó khăn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự đánh giá và thỏa thuận của các thành viên doanh nghiệp. Cần phải nhấn mạnh, tri thức khi được góp vốn hoàn toàn không biến khỏi các thành viên góp nó, có nghĩa là nó chỉ tồn tại nơi các thành viên/cổ đông góp vốn và càng được sử dụng thì càng được củng cố và phát triển. Vì vậy, việc bảo đảm cho sự độc quyền sử dụng các tri thức đó của doanh nghiệp là một vấn đề lớn cần sự trung thực của người góp vốn.

Công sức. Thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp là một căn cứ làm phát sinh ra nghĩa vụ của các thành viên doanh nghiệp. Và đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: chuyển giao quyền sở hữu, làm hoặc không làm một công việc nào đó.Vì vậy, cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có thể giá trị được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp vốn. Có thể quan niệm rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp vốn bằng một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải là công việc của người thừa hành, vì doanh nghiệp có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên.[18, tr. 722]

Có thể dễ dàng nhận thấy, công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có thể được đóng góp vào doanh nghiệp để trở thành một trong những ông chủ của nó, vì doanh nghiệp sẽ dễ dàng mua được công sức lao động như vậy với giá hợp lý mà không phải trả thêm lãi và chia sẻ quyền lực quản lý của các thành viên khác trong doanh nghiệp. Nhưng tại đây có hai trường hợp cần lưu ý: một


là công sức bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm. Hai là, người góp vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác vì khi doanh nghiệp dự định thành lập là một doanh nghiệp đối nhân.

Trường hợp thứ nhất, có thể dễ gây nhầm lẫn với góp vốn bằng tri thức. Tuy nhiên, nếu thành tố tri thức ít hơn so với lao công, thì có thể nói, việc góp vốn đó là góp vốn bằng công việc. Đối với trường hợp này, doanh nghiệp đối vốn cũng có thể cần, chẳng hạn người lái xe giao thông thạo đường góp vốn bằng khả năng này của mình. Trường hợp thứ hai, phụ thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các thành viên. Để hướng tới tính hiệu quả pháp luật về doanh nghiệp, nên thừa nhận sự góp vốn bằng công sức. Điều đó vừa đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí, vừa đảm bảo cho công sức sử dụng lao động xã hội. Cũng giống như góp vốn bằng tri thức, việc góp vốn bằng lao công khiến cho người góp vốn bị ràng buộc vào nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Do đó, nó cũng có hậu quả tương tự với góp vốn bằng tri thức. Người góp vốn không thi hành đầy đủ nghĩa vụ cam kết có thể phải gánh chịu chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc góp vốn bằng công lao được xem là phần góp vốn nhỏ nhất. Chẳng hạn Bộ luật dân sự 1972 của Việt Nam Cộng Hòa dự liệu: “Nếu khế ước không phân định phần lỗ lãi cho mỗi hội viên, kỷ phần ấy sẽ tính theo tỷ lệ phần hùn của mỗi người đã góp vào hội.

Đối với người đã góp phần hùn bằng công lao, phần này sẽ coi như phần hùn nhỏ nhất bằng tài sản” [16, Điều thứ 1277].

Các quy định này cho thấy giá trị của công lao góp vào doanh nghiệp rất khó trị giá chính xác bằng tiền, nên các thành viên tự thỏa thuận về giá trị của nó để bù đắp lại quyền lợi trong doanh nghiệp. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Phần vốn góp bằng công sức lao động không được tính vào vốn của doanh nghiệp, nhưng người góp vốn bằng công sức lao động được nhận cổ phần


của doanh nghiệp, có quyền chi lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ [5, Điều 1843-2].

Như vậy, phần vốn góp bằng công sức nếu có được định giá thì giá trị của công sức đó cũng không được tính vào phần vốn góp của doanh nghiệp, nghĩa là không được ghi tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp.Tuy nhiên, người góp vốn bằng công sức lao động vẫn được nhận cổ phần của doanh nghiệp, có quyền chia lãi như các thành viên khác. Do vậy, phần vốn góp bằng công sức phải được thỏa thuận, định giá để xác định cổ phần mà người góp vốn bằng công sức được hưởng và trên cơ sở xác định cổ phần được hưởng thì người góp vốn bằng công sức sẽ được hưởng các quyền lợi khác tương ứng với số cổ phần của mình. Theo quy định của Bộ luật dân sự nước cộng hòa Pháp: “Phần lãi hoặc lỗ của mỗi thành viên được xác định theo tỷ lệ phần vốn góp của họ vào vốn của doanh nghiệp; phần của thành viên góp vốn bằng sức lao động được tính bằng với phần của người góp vốn ít nhất, trừ trường hợp có quy định khác.” [5, Điều 1844-1].

Như vậy, qua việc nghiên cứu, phân tích, chúng ta thấy các quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp, ngoài các hình thức góp vốn theo luật định bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, tài sản, quyền sở hữu trí tuệ... còn có các hình thức góp vốn mà hiện nay pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định, đó là hình thức góp vốn bằng quyền hưởng dụng, bằng tri thức và bằng công sức. Chủ thể tham gia thành lập doanh nghiệp có thể góp vốn bằng tri thức, công sức của mình mà không nhất thiết phải góp vốn bằng tài sản. Mặc dù việc góp vốn bằng các hình thức này sẽ nảy sinh vấn đề khó khăn trong việc định giá tài sản góp vốn. Nhưng trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên, việc định giá có thể do thành viên tự thỏa thuận khi góp vốn và cùng chịu trách nhiệm thỏa thuận đó, pháp luật chỉ quy định những nguyên tắc


chung nhất để đảm bảo sự công bằng trong góp vốn và đảm bảo được lợi ích của một thực thể độc lập sau này đó là doanh nghiệp mới được thành lập.‌

1.2 Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

1.2.1 Khái niệm và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ

1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Tài sản trí tuệ là sản phẩm của trí óc con người, là tri thức của nhân loại. Các tài sản này liên quan đến những thông tin mà có thể được thể hiện bằng các vật thể hữu hình với số lượng bản sao không hạn chế, ở cùng một thời điểm và các địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao, mà chính là những thông tin chứa đựng trong bản sao đó. Để bảo hộ những tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ đã ra đời với tư cách là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ mà tổ chức, cá nhân đó phát minh, chế tạo. Hiện nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm quyền sở hữu trí tuệ.

Theo Lê Nết: “Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được pháp luật quy định bảo hộ” [7, tr.16, 17].

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới lại định nghĩa: “Sở hữu trí tuệ được hiểu rộng rãi hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sản phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và truyền thanh, phát và truyền hình, các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực, các phát minh khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các tên thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Văn học nghệ thuật”.


Quyền sở hữu trí tuệ là một loại đặc biệt của tài sản vô hình. Quyền sở hữu trí tuệ biểu lộ tất cả sự tồn tại kinh tế và các đặc tính giá trị kinh tế của các tài sản vô hình. Do tình trạng đặc biệt của chúng, quyền sở hữu trí tuệ được sự công nhận pháp lý và sự bảo vệ đặc biệt của pháp luật.

Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền mà Nhà nước giành cho các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu tài sản trí tuệ được kiểm soát độc quyền tài sản trí tuệ trong một thời gian nhất định nhằm ngăn chặn sự khai thác các tài sản này một cách bất hợp pháp. Theo Luật sở hữu trí tuệ được thông qua vào tháng 11/2005 của Việt Nam (sau đây được gọi là Luật sở hữu trí tuệ 2005): “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.”

1.2.1.2 Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ

Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đó chính là các tài sản trí tuệ. “Tài sản trí tuệ” có thể được hiểu là bao gồm tất cả các thông tin có giá trị thương mại. Còn theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp “tài sản trí tuệ” là những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo thể hiện thành những mẫu thông tin kết hợp chặt chẽ với nhau trong các vật thể hữu hình xuất hiện trong cùng một thời gian với số lượng bản sao không giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới và được thừa nhận là tài sản. Khi được thể chế hóa thì những mẫu thông tin này biểu hiện cụ thể thành các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ như: tác phẩm văn học, nghệ thuật, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, giống cây trồng mới ...


Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là: (i) những tổ chức, cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả; (ii) các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm công bố lần đầu tiên ở Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ ở Việt Nam theo Điều ước Quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.

Các loại hình được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học gồm có: tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Bên cạnh đó, các tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Quyền liên quan: Đó là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Đây là các cá nhân, tổ chức không phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm gốc, nhưng lại có sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm, hoặc chuyển tác phẩm đến với công chúng. Quyền liên quan là tập hợp các quy

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2024