CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1 Khái quát chung về góp vốn thành lập doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Nhìn nhận từ góc độ kinh tế, “doanh nghiệp” là một thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học. Thuật ngữ “doanh nghiệp” được bắt nguồn từ tiếng Pháp “entreprendre” có nghĩa là “đảm nhận” hay “hoạt động”. Khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu được những lợi ích kinh tế cao nhất, các tổ chức, cá nhân sẽ phải cân nhắc, xem xét và lựa chọn mô hình kinh doanh cho phù hợp, tùy thuộc vào ý đồ, quy mô, dự tính thời gian kinh doanh... Theo đó, kinh tế học thường nghiên cứu doanh nghiệp dưới các tiêu chí: huy động; phân bổ, sử dụng các nguồn vốn; thuê mướn, phân công lao động; chi phí giao dịch; tổ chức kinh doanh; hiệu quả và lợi ích cho xã hội. Theo M.Francois Peroux: “Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức, sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên doanh nghiệp thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy”. Dưới góc độ kinh tế học, doanh nghiệp được xem xét dưới các yếu tố: chi phí để tổ chức huy động vốn; tổ chức lao động; tiến hành kinh doanh và các chi phí để phối hợp các yếu tố đó với nhau. Có thể nói doanh nghiệp là một trong những hình thức hoạt động mà các tổ chức, cá nhân lựa chọn để thể hiện ý tưởng kinh doanh của mình.
Nhìn nhận từ góc độ pháp lý, doanh nghiệp được pháp luật công nhận là một thực thể pháp lý độc lập. Doanh nghiệp có quyền và cũng phải gánh chịu
những nghĩa vụ pháp lý do hoạt động của mình gây ra. Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như vậy, dưới góc độ pháp lý doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự, hoạt động theo chế độ hoạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động trong phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các loại luật và chính sách thực thi.
Có thể bạn quan tâm!
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 1
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 3
- Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 5
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp
Tùy thuộc vào các tiêu chí phân loại khác nhau, doanh nghiệp sẽ được phân thành các loại khác nhau. Cụ thể:
Theo tiêu chí về hình thức sở hữu và mục đích hoạt động, doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp tư và doanh nghiệp nhà nước.
(i) Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
(ii) Doanh nghiệp tư là doanh nghiệp do các tổ chức, cá nhân đầu tư góp vốn, tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình hoặc trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp về mọi hoạt động của doanh nghiệp tùy thuộc vào từng loại hình cụ thể. Doanh nghiệp tư theo quy định của pháp luật Việt Nam có các loại hình pháp lý như sau: Doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; công ty cổ phần; công ty hợp danh.
Theo tiêu chí quy mô, doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn. Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô như trên, hầu hết ở các nước người ta dựa vào các tiêu chuẩn như: (i) tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp; (ii) số lượng lao động trong doanh nghiệp; (iii) doanh thu của doanh nghiệp; (iii) lợi nhuận hàng năm. Trong đó, tiêu chuẩn tổng số vốn và tổng số lao động là yếu tố chính để phân loại doanh nghiệp, còn yếu tố doanh thu và lợi nhuận được dùng kết hợp với các yếu tố trên để phân loại. Tuy nhiên, tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất ở mỗi quốc gia, tùy thuộc từng ngành nghề cụ thể ở các thời kỳ khác nhau mà số lượng được lượng hóa theo từng tiêu chuẩn của các quốc gia là không giống nhau.
Căn cứ vào sự liên kết, doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp độc lập; nhóm doanh nghiệp; các doanh nghiệp đa quốc gia.
(i) Doanh nghiệp độc lập là những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động một cách độc lập.
(ii) Nhóm doanh nghiệp là tập hợp các doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
(iii) Doanh nghiệp đa quốc gia là các doanh nghiệp sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia trở lên.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ.
(i) Doanh nghiệp nông nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, hướng vào việc sản xuất những sản phẩm là cây và con. Hoạt động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
(ii) Doanh nghiệp công nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nhằm tạo ra sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị, máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong lĩnh vực công nghiệp có thể chia thành: công nghiệp chế tạo; công nghiệp xây dựng; công nghiệp điện tử...
(iii) Doanh nghiệp thương mại: là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong lĩnh vực phân phối hàng hóa cho người tiêu dùng.
(iv) Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: là những doanh nghiệp đi sâu vào khai thác việc cung cấp các dịch vụ cho đời sống con người. Cùng với sự phát triển kinh tế, lĩnh vực dịch vụ ngày càng được phát triển đa dạng, kéo theo đó là những doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ đã không ngừng phát triển nhanh chóng.
1.1.2 Khái niệm và thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp, việc góp vốn thành lập doanh nghiệp nhằm tạo cơ sở vật chất đầu tiên cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Vốn (i) là điều kiện, tiền đề đảm bảo sự tồn tại, ổn định và phát triển của doanh nghiệp; (ii) là điều kiện để doanh nghiệp ra đời và chiến thắng trong cạnh tranh; (iii) là điều kiện để hoạt động sản xuất, kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định; (iv) là điều kiện để doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư và phát triển.
“Góp vốn” là hành vi pháp lý của các tổ chức, cá nhân nhằm đưa tài sản của mình vào cùng tài sản của các chủ thể khác để cùng tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, có thể hiểu “Góp vốn thành lập doanh nghiệp là hành vi pháp lý của các tổ chức/cá nhân trong giai đoạn “tiền doanh nghiệp” nhằm đưa tài sản của tổ chức, cá nhân vào thành tài sản
của doanh nghiệp để hưởng những lợi ích nhất định từ doanh nghiệp được hình thành.”
Xét theo phương diện kinh tế, góp vốn thành lập doanh nghiệp được hiểu là những đóng góp mà tổng cộng những phần đóng góp ấy trở thành dấu hiệu đại diện cho số vốn của doanh nghiệp. Thực chất đó là của “hồi môn” mà mỗi thành viên dành cho doanh nghiệp lúc mới thành lập.
Xét theo phương diện pháp lý, hành vi góp vốn thành lập doanh nghiệp được hiểu là việc một tổ chức, cá nhân chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền hưởng dụng một tài sản vào doanh nghiệp để được hưởng các quyền lợi từ doanh nghiệp sẽ được thành lập. Đó có thể là quyền hưởng lợi tức hoặc quyền điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp...
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ doanh nghiệp, do thành viên góp để tạo thành vốn của Doanh nghiệp.” [13, Điều 4]
Ở đây, chúng ta cần phân biệt việc chủ thể góp vốn chuyển giao tài sản góp vốn cho doanh nghiệp hoàn toàn khác với việc mua bán. Mặc dù, các hành vi này giống nhau là đều có việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền hưởng dụng tài sản từ chủ thể này qua chủ thể khác; và việc chuyển giao này đều đòi hỏi phải xác định giá trị cho tài sản được chuyển giao. Tuy nhiên, chúng có điểm khác nhau ở chỗ: trong hành vi mua bán, bên bán sẽ nhận được một khoản tiền tương đương với giá trị của tài sản chuyển nhượng hay cho thuê. Còn đối với việc góp vốn thành lập doanh nghiệp thì người góp vốn thay vì nhận được một giá trị vật chất thì họ sẽ được hưởng các quyền lợi nhất định từ doanh nghiệp
mình góp vốn như: phần lợi tức, tư cách thành viên, cổ phần dành cho người góp vốn... Sự phân biệt ở đây rất rõ ràng thể hiện ở quyền lợi của người có tài sản sau khi chuyển giao tài sản đó. Thêm vào đó, nếu là hành vi mua bán thì người bán sẽ chấm dứt mọi sự ràng buộc đối với tài sản dưới hình thức “mua đứt, bán đoạn”. Còn nếu là việc góp vốn thành lập doanh nghiệp, người góp vốn có thể vẫn có những trách nhiệm ràng buộc đối với tài sản dùng để góp vốn và họ có thể có cơ hội nhận lại tài sản góp vốn trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật. Hành vi góp vốn thành lập doanh nghiệp tuân theo một chế định pháp lý khác so với hành vi mua bán.
Thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp là thỏa thuận được thiết lập giữa người góp vốn hoặc cam kết góp vốn với doanh nghiệp sẽ được thành lập và mang lại quyền lợi cho chính doanh nghiệp được thành lập – với tư cách một thực thể pháp lý độc lập. Theo đó, người góp vốn có nghĩa vụ phải chuyển giao tài sản góp vốn cho doanh nghiệp và doanh nghiệp có quyền yêu cầu người góp vốn/người cam kết góp vốn phải chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện/thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ góp vốn mà gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Thỏa thuận góp vốn có thể được biểu hiện bằng văn bản hoặc không bằng văn bản. Tuy nhiên, trên thực tế thỏa thuận góp vốn thường được các bên thể hiện dưới dạng văn bản, nó có thể là một băn bản độc lập, một bản cam kết hay một điều khoản trong hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp. Nhìn chung, pháp luật các nước trên thế giới đều quy định việc thành lập doanh nghiệp phải lập thành hợp đồng và điều khoản về vốn là một điều khoản thiết yếu trong hợp đồng thành lập doanh nghiệp. Pháp luật Malaysia và Singapore quan niệm: “trừ khi là một doanh nghiệp có trách nhiệm vô hạn, hợp đồng thành lập doanh nghiệp nhất thiết phải chứa đựng một điều khoản về vốn (capital clause) mà trong đó tuyên bố về khoản vốn được phép và phân chia vốn đó
thành các cổ phần với số lượng ấn định trở thành giới hạn mà doanh nghiệp có thể được phép quyên góp [27, tr155-156].
Để xác định được nghĩa vụ góp vốn của các thành viên, thỏa thuận góp vốn bao gồm các nội dung chính như: Chủ thể góp vốn; giá trị vốn góp; tài sản góp vốn; phương thức chuyển giao vốn góp; thời điểm góp vốn...
1.1.3 Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp
Theo Bộ Luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp: “Doanh nghiệp do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi.
Trong những trường hợp do pháp luật quy định, doanh nghiệp có thể do một người thành lập.
Các thành viên doanh nghiệp cam kết cùng chịu lỗ” [5, Điều 1832]
Theo quy định của Bộ Luật dân sự Pháp, tài sản được dùng để góp vốn ở đây có thể là tài sản hoặc công sức của người góp vốn. Khái niệm “tài sản” theo quy định của Bộ Luật dân sự nước Cộng hòa Pháp không được liệt kê cụ thể mà chỉ được phân ra làm động sản hoặc bất động sản.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 tài sản có thể dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp đã được các nhà làm luật sử dụng phương pháp liệt kê. Tài sản dùng để góp vón thành lập doanh nghiệp bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp liệt kê rất dễ dẫn tới sự không đầy đủ, do vậy, luật doanh nghiệp 2005 đã có quy định mở là ngoài các tài sản đã liệt kê thì các tài sản khác ghi trong Điều lệ doanh nghiệp cũng được coi là tài sản góp vốn. Dựa vào khái niệm tài sản ta có thể phân loại tài sản dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp gồm những đối tượng sau:
Tiền và giấy tờ có giá. Tiền theo kinh tế học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa và là phương tiện lưu thông trong đời sống của con người. Giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. Giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, séc, giấy ủy nhiệm chi, sổ tiết kiệm... Việc góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, những người góp vốn ban đầu chính là những người tạo ra quyền lợi ấy [3, tr53]. Việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng tiền hoặc giấy tờ có giá được coi là hoàn tất khi thành viên góp vốn chuyển giao tiền mặt hoặc giấy tờ có giá cho doanh nghiệp được thành lập. Trong trường hợp khi đã cam kết góp vốn bằng tiền mà người góp vốn không góp hoặc góp không đúng hạn, thì khoản tiền đã cam kết góp được coi là khoản nợ của người đó với doanh nghiệp và người góp vốn đó phải chịu lãi suất đối với khoản tiền này kể từ ngày cam kết góp vốn và phải bồi thường nếu có thiệt hại do việc không góp vốn này gây ra. Như Bộ Luật dân sự nước Cộng hòa Pháp quy định: “Thành viên phải góp một số tiền vào doanh nghiệp mà không đóng góp thì đương nhiên trở thành người có nghĩa vụ thanh toán lãi của số tiền đó, kể từ ngày phải đóng góp và bồi thường thiệt hại, nếu có” [5, Điều 1843-3].
Hiện vật, đây là việc người góp vốn sử dụng một tài sản hữu hình để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Mặc dù, về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong hành vi góp vốn thành lập doanh nghiệp sẽ xuất hiện sự chuyển giao tài sản từ chủ thể góp vốn sang cho doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo được yêu cầu này, thì tài sản là vật sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp phải là vật đưa được vào giao lưu dân sự. Nó phải đáp ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ